Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Charles Taylor (chính khách Liberia)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n ?
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 21:
'''Charles McArthur Ghankay Taylor''' (sinh 28 tháng 1 năm 1948) là Tổng thống thứ 22 của [[Liberia]] nhiệm kỳ từ ngày 02 tháng 8 năm 1997 cho đến khi ông từ chức vào ngày 11 tháng 8 năm 2003<ref name="allafricatheend">{{cite news | first=Ofeibea | last=Quist-Arcton | coauthors= | title=Liberia: Charles Ghankay Taylor, Defiant And Passionate To The End | date=2003-08-11 | publisher=allAfrica.com | url =http://allafrica.com/stories/200308111235.html | work = | pages = | accessdate = 2008-01-18 | language = }}</ref>.
 
Sinh ra tại [[Arthington, huyệnLiberia|Arthington]], [[Montserrado (hạt)|hạt Montserrado]], Liberia, Taylor tốt nghiệp tại [[Bentley College]] tại [[Hoa Kỳ]] trước khi trở về Liberia để làm việc cho chính phủ của Samuel Doe. Sau khi bị khai trừ vì tham ô, cuối cùng ông đến [[Libya]], nơi ông được đào tạo làm chiến binh du kích. Ông trở lại Liberia vào năm 1989 với tư cách người đứng đầu một nhóm kháng chiến ủng hộ Libya, có tên là Mặt trận Quốc gia yêu nước Liberia, nhằm lật đổ chế độ Doe, bắtkhởi đầuxướng cuộc [[nội chiến Liberia lần thứ nhất]]. Sau vụkhi Doe bị hành quyết Doe, ông giành được quyền kiểm soát phần lớn của đất nước và trở thành một trong cácnhững lãnh chúa nổi bật nhất ở [[châu Phi]]<ref name="economistjustice">{{cite news |url= http://www.economist.com/world/africa/displaystory.cfm?story_id=9262468 |title= Justice at last?|accessdate= 2007-08-05|date= 2007-05-31| publisher= ''The Economist''}}</ref>. Sau một thỏa thuận hòa bình nhưng kết thúc bằng chiến tranh, Taylor dùng vũ lực ép buộc dân chúng bằng vũ lực để bầu ông làm tổng thống trong cuộc tổng tuyển cử năm 1997<ref>{{cite news| url=http://www.nytimes.com/2000/12/07/world/in-ruined-liberia-its-despoiler-sits-pretty.html | work=The New York Times | first=Norimitsu | last=Onishi | title=In Ruined Liberia, Its Despoiler Sits Pretty | date=2000-12-07}}</ref>.
 
Trong nhiệm kỳ tổng thống, Taylor bị cáo buộc về [[tội ác chiến tranh]] và [[tội ác chống loài người]] do tham gia trong cuộc [[nội chiến Sierra Leone]]. Trong nước, các cuộc phản đối chế độ của ông bùng phát, mà đỉnh cao là sự bùng nổ [[nội chiến Liberia lần thứ hai]] vào năm 1999. Đến năm 2003, ông đã mất quyền kiểm soát của nhiều vùng nông thôn và chính thức bị [[Tòa án đặcĐặc biệt truy tố về Sierra Leone]] truy tố. Năm đó, ông từ chức do kết quả của áp lực quốc tế tăng dần và lưu vong ở Nigeria. Trong năm 2006, Tổng thống vừa được bầu [[Ellen Johnson Sirleaf]] chính thức yêu cầu dẫn độ ông. Khi đến [[Monrovia]], ông đã được chuyển giao cho lưu ký Sứ[[phái mệnh củađoàn Liên Hiệp Quốc tại Liberia]] và ngay lập tức bayđược tớiđưa đến [[Sierra Leone]]. Ông hiện đang bị giam trong đơn vị Trạitrại giam quốcLiên trênHiệp Quốc<!--on sởthe củapremises cácof Haaglandenthe CácPenitentiary tổInstitution chứcHaaglanden giamin tạiThe [[La Hay]]Hague-->, nơi ông được đưa ra xét xử trước [[Tòa án đặcĐặc biệt chovề Sierra Leone]] cho vai trò của ông trong cuộc nội chiến<ref>{{cite news | url=http://www.time.com/time/world/article/0,8599,1910365,00.html | work=TIME | title= 'Lies and Rumors': Liberia's Charles Taylor on the Stand| date=July 14, 2009 |accessdate=2009-07-14 | first=Leo | last=Cendrowicz}}</ref>. Ông bị tòa tuyên án có tội ngày 26 tháng 4 năm 2012 với tất cả 11 tội danh, hình phạt dự kiến được tòa quyết định vào ngày 3 tháng 5 năm 2012.
 
==Thời trẻ==