Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Nhanvo (thảo luận | đóng góp)
wikify
Dòng 1:
'' '''Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh''' '' (zh. 般若波羅蜜多經, sa. ''prajñāpāramitāsūtra''), cũng được gọi là '' '''Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh''' '', '' '''Huệ đáo bỉ ngạn kinh''' '', "Kinh với trí huệ đưa người qua bờ bên kia", là một bộ kinh bao gồm khoảng 40 bài kinh [[Ðại thừa]] được gọi chung dưới tên này với nội dung, mục đích hướng dẫn hành giả đạt được trí [[Bát-nhã]] (sa. ''prajñā''). Bộ kinh này là một phần quan trọng của bộ [[kinh Phương đẳng]] (sa. ''vaipulya-sūtra''), được ghi có lẽ từ [[thế kỉ thứ nhất trướcTCN]] công nguyên đến khoảng tk.[[thế thứkỉ năm sauthứ CN5]]. Ngày nay, phần lớn kinh này chỉ còn trong dạng chữ Hán hoặc chữ Tây Tạng, không mấy còn trong dạng Phạn ngữ.
 
Trong bộ kinh này thì hai bài ''[[Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh]]'' (sa. ''vajracchedikāprajñāpāramitā-sūtra'') và ''[[Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh]]'' (sa. ''prajñāpāramitā-hṛdaya-sūtra'') là nổi tiếng nhất, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, kể cả Anh, Pháp và Ðức ngữ. Luận sư quan trọng nhất của kinh Bát-nhã là [[Long Thụ]].
Dòng 6:
Phần cổ nhất của kinh này là ''[[Bát-nhã bát thiên tụng]]'' (''[[Bát thiên tụng bát-nhã]]'') (sa. ''aṣṭasāhasrikā'') – cũng được gọi là ''Tiểu phẩm bát-nhã'' – một bộ kinh gồm 8000 câu văn Phật giảng cho nhiều đệ tử cùng nghe. Ðây cũng là cơ sở cho tất cả bộ kinh Bát-nhã khác, mỗi bộ gồm từ 300-100.000 câu kệ với vô số bài luận và phiên dịch. Bản dịch chữ Hán đầu tiên ra đời khoảng năm 179.
 
Các bộ kinh hệ Bát-nhã hàm dung hai điểm mới trong lịch sử Phật giáo, đó là hình tượng lí tưởng của một vị [[Bồ Tát]] và trí huệ được dạy là trí huệ [[tính Không]] và sự nhận thức là chư pháp bất sinh. [[Edward Conze]], nhà nghiên cứu kinh Bát-nhã đã tóm tắt nội dung của bộ kinh này như sau:
:Hàng nghìn câu của những bài kinh Bát-nhã có thể được tóm tắt trong hai câu: sau
: 1. #Hành giả nên tu tập trở thành một [[Bồ Tát]] (hoặc một vị Phật tương lai), như vậy là một người không hài lòng với những gì khác hơn là Trí huệ toàn vẹn (nhất thiết trí), đạt được bằng Bát-nhã vì lợi ích của tất cả chúng sinh. 2.
:#Không có một pháp như một Bồ Tát, hoặc một Nhất thiết trí, hoặc một sự "tồn tại", hoặc một Bát-nhã hoặc sự chứng đắc nào cả. Chấp nhận hai sự thật đối nghịch nhau như thế có nghĩa là toàn hảo (sa. ''pāramitā'').
 
Những bước phát triển quan trọng khác của bộ kinh này là khái niệm [[Phương tiện thiện xảo]] (sa. ''upāyakauśalya'', sự khôn khéo trong lúc áp dụng phương pháp) và sự hồi hướng công đức (sa. ''pariṇāmanā'').