Khác biệt giữa bản sửa đổi của “SMS Grosser Kurfürst (1913)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Bot: en:SMS Grosser Kurfürst (1913) là một bài viết chọn lọc
Yduocizm (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: group=Note → group="Ghi chú" (8) using AWB
Dòng 60:
|}
 
'''SMS ''Grosser Kurfürst'''''<ref group=Note"Ghi chú">"SMS" là từ viết tắt trong [[tiếng Đức]] của "''[[Seiner Majestät Schiff]]''", có nghĩa "tàu của đức vua", tương đương với HMS trong [[tiếng Anh]].</ref> là chiếc thứ hai trong lớp [[thiết giáp hạm]] [[König (lớp thiết giáp hạm)|''König'']] được [[Hải quân Đế quốc Đức]] chế tạo trong [[Chiến tranh Thế giới thứ nhất]]. ''Grosser Kurfürst'' (còn có thể viết là ''Großer Kurfürst'') được đặt lườn vào ngày [[tháng 10]] năm [[1911]] và được hạ thủy vào ngày [[5 tháng 5]] năm [[1913]]. Nó được chính thức đưa ra hoạt động cùng [[Hạm đội Biển khơi Đức]] vào ngày [[30 tháng 7]] năm [[1914]], chỉ ít ngày trước khi chiến tranh nổ ra giữa nước Đức và [[Anh Quốc]]. Tên của nó mang nghĩa “Đại cử tri”, được đặt để ám chỉ vị "Tuyển hầu tước vĩ đại" xứ [[Brandenburg]] kiêm Quận công xứ [[Công quốc Phổ|Phổ]] là [[Friedrich Wilhelm I xứ Brandenburg|Friedrich Wilhelm I]] hồi [[thế kỷ 17]]<ref group=Note"Ghi chú">''Tuyển hầu tước'' là những thành viên trong Hội đồng bầu cử của [[Đế quốc La Mã Thần thánh]] có quyền bầu Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh.</ref>. ''Grosser Kurfürst'' được trang bị mười khẩu pháo SK {{convert|30,5|cm|in}} L/50 trên năm [[tháp pháo]] nòng đôi, và có thể di chuyển với tốc độ tối đa {{convert|21|kn|link=on}}.
 
Cùng với ba chiếc tàu chị em cùng lớp [[SMS König|''König'']], [[SMS Markgraf|''Markgraf'']] và [[SMS Kronprinz (1914)|''Kronprinz'']], ''Grosser Kurfürst'' đã tham gia hầu hết các hoạt động của hạm đội trong chiến tranh, kể cả [[trận Jutland]] vào ngày [[31 tháng 5]]-[[1 tháng 6]] năm [[1916]]. Con tàu đã chịu đựng hỏa lực ác liệt trong trận này từ những thiết giáp hạm Anh Quốc, nhưng không bị hại hại gì nghiêm trọng. Nó cũng tham gia bắn phá các vị trí của Nga trong [[Chiến dịch Albion]] vào [[tháng 9]] và [[tháng 10]] năm [[1917]]. ''Grosser Kurfürst'' chịu đựng một số tai nạn trong suốt quãng đời hoạt động; nó từng va chạm với ''König'' và ''Kronprinz'', nhiều lần bị mắc cạn, bị trúng ngư lôi một lần và bị trúng mìn một lần.<ref>{{Harvnb|Hore|2006|p=69}}</ref>
Dòng 69:
{{main|Lớp thiết giáp hạm König}}
[[Tập tin:König class battleship - Jane's Fighting Ships, 1919 - Project Gutenberg etext 24797.png|thumb|Sơ đồ và mặt cắt của lớp ''König'', như được mô tả trong Jane's ''Fighting Ships'' 1919|alt=Schematics for this type of battleship; the ships mount five gun turrets, two forward, one in the center between two smoke stacks, and two aft]]
''Grosser Kurfürst'' được đặt hàng dưới cái tên tạm thời ''Ersatz Kurfürst Friedrich Wilhelm''<ref group=Note>"Ghi chú">Mọi tàu chiến Đức được đặt hàng dưới cái tên tạm thời: những bổ sung mới cho hạm đội được đặt một ký tự, trong khi những chiếc dự định để thay thế một tàu chiến cũ được đặt tên "[[Ersatz]] (tên tàu được thay thế)"; khi hoàn tất, nó sẽ được đặt cái tên dự định dành cho nó. Xem: Gröner, trang 27.</ref> và được chế tạo tại xưởng tàu của hãng [[AG Vulcan]] ở [[Hamburg]] dưới số hiệu chế tạo 4.<ref name=G27>{{Harvnb|Gröner|1990|p=27}}</ref> Nó được đặt lườn vào [[tháng 10]] năm [[1911]] và được hạ thủy vào ngày [[5 tháng 5]] năm [[1913]].<ref>{{Harvnb|Campbell|1987|p=36}}</ref> Do tình hình chính trị tại Châu Âu ngày càng căng thẳng vào giữa năm [[1914]], việc hoàn tất nó được thúc đẩy nhanh hơn.<ref>{{Harvnb|Staff|2010|p=31}}</ref> Đợt chạy thử máy đầu tiên của xưởng tàu được bắt đầu vào ngày [[15 tháng 7]] năm [[1914]],<ref name=S32>{{Harvnb|Staff|2010|p=32}}</ref> và công việc trang bị hoàn tất vào ngày [[30 tháng 7]], ngày mà nó được đưa ra hoạt động cùng [[Hạm đội Biển khơi Đức]].<ref name=G28>{{Harvnb|Gröner|1990|p=28}}</ref> Nó đã làm tiêu tốn cho Chính phủ Đế quốc Đức 45 triệu [[Mác vàng Đức]].<ref name=G27/>
 
''Grosser Kurfürst'' có [[trọng lượng choán nước]] tiêu chuẩn {{convert|25796|t|ST|abbr=on}} khi chế tạo và lên đến {{convert|28600|t|ST|abbr=on}} khi đầy tải nặng, với chiều dài {{convert|175,4|m|ft|abbr=on}}, [[mạn thuyền]] rộng {{convert|19,5|m|ft|abbr=on}} và độ sâu của mớn nước là {{convert|9,19|m|ft|abbr=on}}. Nó được vận hành bởi ba [[turbine hơi nước]] AEG-Vulcan, sản sinh ra tổng công suất {{convert|43300|shp|MW|abbr=on}} và đặt được tốc độ tối đa {{convert|21|kn|km/h|abbr=on}}.<ref name=G27/>
Dòng 85:
''Grosser Kurfürst'' tham gia một cuộc tiến quân hạm đội đến Bắc Hải từ ngày [[29 tháng 5|29]] đến ngày [[31 tháng 5]] vốn kết thúc mà không đụng độ với đối phương. Chiếc thiết giáp hạm đã hỗ trợ một hoạt động rải mìn vào ngày [[11 tháng 9|11]]–[[12 tháng 9]] ngoài khơi [[Texel]]. Một cuộc tiến quân hạm đội vô sự khác diễn ra vào ngày [[23 tháng 10|23]]–[[24 tháng 10]].<ref name=S29/> ''Grosser Kurfürst'' thực hiện một chuyến đi huấn luyện kéo dài hai tuần tại biển Baltic, diễn ra từ ngày [[5 tháng 12|5]] đến ngày [[20 tháng 12]]. Một lượt thực tập khác tại Baltic được tiếp nối vào ngày [[18 tháng 1|18]]-[[23 tháng 1]] năm [[1916]]. ''Grosser Kurfürst'' đi vào ụ tàu tại Wilhelmshaven để bảo trì định kỳ vào ngày [[12 tháng 2]]; công việc kéo dài cho đến ngày [[3 tháng 3]]. Hai ngày sau đó, con tàu lên đường cho một đợt càn quét đến [[Hoofden]], nhưng một lần nữa nó thất bại không tìm thấy bất kỳ lực lượng Anh nào. Hạm đội thực hiện một đợt tiến quân khác vào ngày [[23 tháng 3]] đến Amrun Bank, rồi lặp lại một lần nữa một tháng sau đó đến [[Horns Reef]] vào các ngày [[21 tháng 4|21]]-[[22 tháng 4]].<ref name=S32/>
 
Vào ngày [[24 tháng 4|24]]-[[25 tháng 4]], các tàu chiến-tuần dương thuộc Đội Tuần tiễu 1 dưới quyền Đô đốc [[Franz von Hipper]] đã tiến hành cuộc [[bắn phá Yarmouth và Lowestoft]] trong khi ''Grosser Kurfürst'' và các thiết giáp hạm khác sẵn sàng hỗ trợ từ xa. Các tàu chiến-tuần dương rời Jade Estuary lúc 10 giờ 55 [[giờ Trung Âu]] (CET),<ref group=Note"Ghi chú">Nước Đức thuộc về múi giờ Trung Âu, một giờ sớm hơn [[giờ GMT]]. Thời gian nêu trong bài này thuộc múi giờ này, sớm hơn một giờ so với các công trình nghiên cứu của Anh Quốc.</ref> và phần còn lại của Hạm đội Biển khơi tiếp nối lúc 13 giờ 40 phút. Tàu chiến-tuần dương [[SMS Seydlitz|''Seydlitz'']] bị hư hại do trúng phải [[thủy lôi]] trên đường đi đến mục tiêu trong chiến dịch này, và bị buộc phải rút lui.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=53}}</ref> Các tàu chiến-tuần dương còn lại tiến hành bắn phá Lowestoft mà không bị kháng cự, nhưng đang khi trên đường đi đến Yarmouth, chúng đụng độ với các tàu tuần dương Anh thuộc Lực lượng Harwich. Một cuộc đấu pháo ngắn diễn ra trước khi Lực lượng Harwich rút lui; nhưng những báo cáo về hoạt động của tàu ngầm Anh tại khu vực đã buộc Đội Tuần tiễu 1 phải rút lui. Vào lúc này, Đô đốc [[Reinhard Scheer]] nhận được cảnh báo rằng Hạm đội Grand đã lên đường từ căn cứ của chúng ở [[Scapa Flow]], nên cũng đã rút lui về vùng biển Đức an toàn hơn.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=54}}</ref>
 
=== Trận Jutland ===
Dòng 92:
''Grosser Kurfürst'' đã có mặt trong cuộc xuất quân của hạm đội vốn đã đưa đến [[trận Jutland]] vào ngày [[31 tháng 5]]-[[1 tháng 6]] năm [[1916]]. Hoạt động này là một nỗ lực lặp lại các kế hoạch trước đây dự định thu hút một phần Hạm đội Grand để tiêu diệt chúng trước khi phần chủ lực của Hạm đội Anh có thể đáp trả. ''Grosser Kurfürst'' là chiếc thứ hai trong [[hàng chiến trận]] Đức, ngay phía sau con tàu chị em ''König'' và dẫn trước ''Markgraf'' cùng ''Kronprinz''; bốn chiếc này hình thành nên Đội 5 trực thuộc Hải đội Chiến trận 3, là đơn vị đi tiên phong của hạm đội, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc [[Paul Behncke]], đặt cờ hiệu của mình trên [[soái hạm]] ''König''. Ngay phía sau chúng l̀à những chiếc [[Kaiser (lớp thiết giáp hạm)|lớp ''Kaiser'']] thuộc Đội 6 của Hải đội Chiến trận 3, rồi tiếp theo là những chiếc lớp [[Helgoland (lớp thiết giáp hạm)|''Helgoland'']] và [[Nassau (lớp thiết giáp hạm)|''Nassau'']] thuộc Hải đội Chiến trận 2, và sau cùng là các [[thiết giáp hạm tiền-dreadnought]] [[Deutschland (lớp thiết giáp hạm)|lớp ''Deutschland'']] lạc hậu thuộc Hải đội Chiến trận 1.<ref name=T286>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=286}}</ref>
 
Không lâu trước 16 giờ 00, các tàu chiến-tuần dương thuộc Đội Tuần tiễu 1 đối đầu với Hải đội Tuần chiến-Tuần dương 1 Anh Quốc dưới quyền chỉ huy của Đô đốc [[David Beatty, Bá tước thứ nhất Beatty|David Beatty]]. Các lực lượng đối địch bắt đầu một cuộc đấu pháo, vốn đã đưa đến việc phá hủy chiếc [[HMS Indefatigable (1909)|HMS ''Indefatigable'']] không lâu sau 17 giờ 00,<ref>{{Harvnb|Tarrant|2001|p=94–95}}</ref> rồi đến lượt [[HMS Queen Mary|HMS ''Queen Mary'']] không đầy nữa giờ sau đó.<ref>{{Harvnb|Tarrant|2001|p=100–101}}</ref> Vào lúc này, các tàu chiến-tuần dương Đức di chuyển về phía Nam nhằm thu hút các tàu chiến Anh về phía lực lượng chủ lực của Hạm đội Biển khơi. Đến 17 giờ 30, thiết giáp hạm Đức dẫn đầu [[SMS König|''König'']] nhìn thấy cả Đội Tuần tiễu 1 của Đức bên mạn phải và Hải đội Tàu chiến-tuần dương 1 của Anh bên mạn trái. Đến 17 giờ 45 phút, Scheer ra lệnh bẻ lái 2 point (22,5°)<ref group=Note"Ghi chú">La bàn có thể chia thành 32 point, mỗi point tương ứng với 11,25°. Bẻ lái 2 point sang mạn trái sẽ làm đổi hướng con tàu 22,5 độ.</ref> sang mạn trái để đưa các con tàu của ông đến gần hơn các tàu chiến-tuần dương Anh. Lệnh khai hỏa được đưa ra chỉ một phút sau đó.<ref>{{Harvnb|Tarrant|2001|p=110}}</ref>
 
''Grosser Kurfürst'' đối đầu với tàu chiến-tuần dương [[HMS Princess Royal (1911)|''Princess Royal'']] ở khoảng cách {{convert|21000|yd|m|abbr=on}}.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=110-111}}</ref> Cùng lúc đó, dàn pháo hạng hai của nó cũng khai hỏa nhắm vào các [[tàu khu trục]] Anh đang tìm cách tung ra đợt tấn công bằng ngư lôi nhắm vào hạm đội Đức.<ref group=Note"Ghi chú">Tác giả V. E. Tarrant cho rằng [[HMS Nicator|''Nicator'']] và [[HMS Nestor (1915)|''Nestor'']] phóng bốn ngư lôi nhắm vào ''Grosser Kurfürst'' và ''König'' mặc dù cả bốn quả đều trượt mục tiêu. Tuy nhiên, John Campbell cho rằng những con tàu này nhắm vào [[SMS Derfflinger|''Derfflinger'']] và [[SMS Lützow|''Lützow'']], còn chính [[HMS Moorsom (1914)|''Moorsom'']] mới phóng bốn ngư lôi nhắm vào ''Grosser Kurfürst'' và ''Markgraf''. Xem: Tarrant, trang 114, và Campbell, trang 55-56.</ref> Những con tàu Anh nhanh hơn bắt đầu tách ra xa khỏi những kẻ theo đuổi, và đến 18 giờ 00, ''Grosser Kurfürst'' buộc phải chuyển hỏa lực từ ''Princess Royal'' sang thiết giáp hạm [[HMS Valiant (1914)|''Valiant'']], mặc dù đến 18 giờ 16 phút, bản thân ''Valiant'' cũng di chuyển ra khỏi tầm bắn hiệu quả.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=116}}</ref> Đạn pháo của ''Grosser Kurfürst'' đã bốn lần vây bọc chung quanh ''Valiant'', các pháo thủ Đức đã sai lầm khi cho rằng họ đã bắn trúng đích một quả.<ref>{{Harvnb|Campbell|1998|p=98}}</ref> Bản thân nó thoát ra mà không hoàn toàn vô sự, khi vào 18 giờ 09 phút, nó bị bắn trúng một quả đạn pháo {{convert|15|in|abbr=on}} có thể từ [[HMS Malaya (1915)|''Malaya'']] hoặc [[HMS Warspite (03)|''Warspite'']].<ref>{{Harvnb|Campbell|1998|p=100}}</ref> Quả đạn pháo bắn trúng mặt nước cách con tàu khoảng {{convert|30|-|60|ft|m|abbr=on}}, có thể đã nảy lên hoặc phát nổ và va chạm vào lườn tàu cách mũi tàu {{convert|85|ft|m|abbr=on}}; phát bắn trúng không gây hư hại nào đáng kể.<ref>{{Harvnb|Campbell|1998|p=144}}</ref> Trong giai đoạn này, các pháo thủ cho rằng đã bắn trúng ba phát đạn pháo {{convert|15|cm|ft|abbr=on}} trên một tàu khu trục đối phương, nhiều khả năng là chiếc [[HMS Moorsom (1914)|''Moorsom'']].<ref>{{Harvnb|Campbell|1998|p=58}}</ref> Đến 18 giờ 22 phút, nó đối đầu trong một lúc ngắn bằng dàn pháo hạng hai vào tàu khu trục [[HMS Moresby|''Moresby'']] ở khoảng cách cực xa, nhưng không bắn trúng phát nào.<ref>{{Harvnb|Campbell|1998|p=101}}</ref> Cùng lúc đó, ''Valiant'' lại lọt trở vào tầm bắn hiệu quả của ''Grosser Kurfürst'', và nó khai hỏa hai tháp pháo phía trước; con tàu đã bắn trong tám phút, nhưng tất cả các phát đạn đều không với tới mục tiêu.<ref>{{Harvnb|Campbell|1998|p=104}}</ref>
 
Không lâu trước 19 giờ 00, tàu tuần dương Đức [[SMS Wiesbaden|''Wiesbaden'']] bị đánh hỏng bởi một quả đạn pháo từ chiếc tàu chiến-tuần dương Anh [[HMS Invincible (1908)|''Invincible'']]; Chuẩn Đô đốc Behncke trên chiếc ''König'' tìm cách cơ động Hải đội Chiến trận 3 để bảo vệ cho chiếc tàu tuần dương bị bắn trúng.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=137}}</ref> Nhưng cùng lúc đó, các hải đội tuần dương nhẹ 3 và 4 của Anh bắt đầu một cuộc tấn công bằng ngư lôi vào hàng chiến trận Đức; trong khi tiến đến đủ khoảng cách để phóng ngư lôi, chúng tấn công ''Wiesbaden'' bằng hỏa lực của dàn pháo chính. ''Grosser Kurfürst'' và các tàu chị em đã dội hỏa lực vào các tàu tuần dương Anh, nhưng việc chịu đựng hỏa lực pháo hạng nặng của các thiết giáp hạm đối phương không đủ để đánh đuổi các tàu tuần dương Anh.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=138}}</ref> ''Grosser Kurfürst'' bắn hai loạt đạn pháo bằng dàn pháo chính ở khoảng cách cực gần nhắm vào chiếc [[HMS Defence (1907)|''Defence'']], vốn cũng chịu đựng hỏa lực từ các tàu chiến chủ lực Đức khác, nên đã nổ tung và chìm lúc 19 giờ 19 phút.<ref name=C1523>{{Harvnb|Campbell|1998|p=152-153}}</ref> Trinh sát viên trên ''Grosser Kurfürst'' cho rằng hai loạt đạn pháo đều đã bắn trúng mục tiêu, nhưng không gán công lao đánh chìm nó nhờ loạt đạn pháo của mình.<ref>{{Harvnb|Campbell|1998|p=181}}</ref> Sau đó ''Grosser Kurfürst'' chuyển hỏa lực sang chiếc [[HMS Warrior (1905)|''Warrior'']], vốn bị hư hại nặng và bị buộc phải rút lui. ''Warrior'' bị đắm trên đường cố lếch trở về cảng sáng hôm sau.<ref name=C1523/>
 
Đến 20 giờ 00, hàng chiến trận Đức được lệnh quay mũi về phía Đông, tách xa khỏi Hạm đội Anh đang dưới quyền chỉ huy của Đô đốc [[John Jellicoe, Bá tước thứ nhất Jellicoe|John Jellicoe]]. Không lâu sau đó, bốn tàu tuần dương hạng nhẹ Anh thuộc Hải đội Tuần dương nhẹ 2 tiếp tục tấn công chiếc ''Wiesbaden'' đã bị đánh hỏng; các thiết giáp hạm Đức dẫn đầu, trong đó có ''Grosser Kurfürst'', khai hỏa vào các tàu tuần dương Anh để tìm cách ngăn chặn.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=169}}</ref> ''Grosser Kurfürst'' bắt đầu bắn lúc 20 giờ 07 phút ở khoảng cách {{convert|10000|-|18000|yd|m|abbr=on}}, nhưng bất chấp hỏa lực mạnh, các tàu tuần dương Anh vẫn thoát đi được mà không bị hư hại nghiêm trọng. <ref>{{Harvnb|Campbell|1998|p=204}}</ref> Cũng cùng vào lúc này, hạm đội Anh quay trở lại tầm bắn hiệu quả, và bảy chiếc thiết giáp hạm đã dội hỏa lực mạnh xuống những chiếc thuộc Đội 5. ''Grosser Kurfürst'' bị bắn trúng bảy lần, với bốn phát trúng liên tiếp chỉ trong một quãng ngắn từ 20 giờ 18 phút đến 20 giờ 19 phút. Ba phát trong số đó là những quả đạn {{convert|13,5|in|cm|abbr=on}} từ chiếc [[HMS Marlborough (1912)|''Marlborough'']], cho dù pháo thủ trên chiếc tàu chiến Anh sai lầm cho rằng đã bắn trúng thêm một phát thứ tư.<ref>{{Harvnb|Campbell|1998|p=204-206}}</ref> Bốn phát bắn trúng còn lại đến từ các khẩu pháo 15 inch của [[HMS Barham (04)|''Barham'']] hoặc ''Valiant''.<ref>{{Harvnb|Campbell|1998|p=237}}</ref> Một trong các quả đạn pháo 15 inch đã phá hủy khẩu pháo 15 cm số 2 bên mạn trái, và một quả khác đánh trúng đai giáp và phát nổ khi tiếp xúc. Cho dù nó không thể xuyên thủng đai giáp, nó cũng đẩy các tấm thép giáp lệch đi {{convert|13|in|cm|abbr=on}} trong một khoảng dài {{convert|26|ft|m|abbr=on}}. Các đội kiểm soát hư hỏng đã xoay sở tạm thời ngăn được việc ngập nước, sau khi khoảng {{convert|800|MT|abbr=on}} nước đã tràn vào con tàu. Việc ngập nước đã khiến con tàu bị nghiêng 4°, cho dù các nỗ lực bằng cách cho ngập đối xứng đã làm giảm độ nghiêng xuống còn không đầy một độ. Khi trận chiến tiếp diễn, việc ngập nước trở nên nghiêm trọng hơn, và vào lúc ''Grosser Kurfürst'' quay trở về đến [[Helgoland]] sáng hôm sau, nó đã bị tràn khoảng {{convert|3000|MT|abbr=on}} nước. Nó cũng chịu đựng nhiều phát bắn trúng khác, nhưng các quả đạn này đã nổ khi tiếp xúc nên chỉ gây ra những hư hại nhẹ.<ref>{{Harvnb|Campbell|1998|p=237-245}}</ref>
 
Hỏa lực mạnh từ phía Hạm đội Anh đã buộc Scheer phải ra lệnh cho hạm đội chuyển hướng; sự cơ động này đã làm đảo lộn thứ tự hàng của hạm đội, đặt ''Grosser Kurfürst'' về phía cuối hàng chiến trận.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1995|p=172-174}}</ref> Sau khi rút lui thành công khỏi lực lượng Anh, Scheer chỉ thị cho hạm đội tổ chức thành đội hình di chuyển ban đêm, cho dù các sai sót trong việc liên lạc giữa ông trên soái hạm [[SMS Friedrich der Grosse (1911)|''Friedrich der Grosse'']] và chiếc dẫn đầu [[SMS Westfalen|''Westfalen'']] đã gây ra những sự trì hoãn. Hạm đội lập lại được đội hình lúc 23 giờ 30 phút, với ''Grosser Kurfürst'' là chiếc thứ 15 trong đội hình 24 tàu chiến chủ lực Đức.<ref>{{Harvnb|Campbell|1998|p=275}}</ref> Vào khoảng 02 giờ 45 phút ngày [[1 tháng 6]], nhiều tàu khu trục Anh tung ra một đợt tấn công bằng ngư lôi vào phần nữa sau của hàng chiến trận Đức; ''Grosser Kurfürst'' phát hiện sáu tàu khu trục không rõ nhận dạng trong đêm tối. Nó đối đầu với chúng bằng các khẩu pháo 15 cm và 8,8 cm trong khi quay mũi để né tránh các quả ngư lôi có thể đã được phóng ra. ''Grosser Kurfürst'' ghi được một phát đạn pháo 15 cm trúng vào tàu khu trục [[HMS Nessus|''Nessus'']] ở khoảng cách {{convert|2200|yd|m|abbr=on}}, đánh hỏng một trong các nồi hơi của ''Nessus''.<ref>{{Harvnb|Campbell|1998|p=298-301}}</ref> Hỏa lực mạnh từ các thiết giáp hạm Đức đã buộc các tàu khu trục Anh phải rút lui.<ref>{{Harvnb|Campbell|1998|p=300-301}}</ref>
Dòng 120:
Sau khi Đức đầu hàng vào [[tháng 11]] năm [[1918]], hầu hết tàu chiến của Hạm đội Biển khơi, kể cả ''Grosser Kurfürst'', bị lưu giữ tại căn cứ hải quân Anh tại [[Scapa Flow]], dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc [[Ludwig von Reuter]].<ref name=T282/> Trước khi Hạm đội Đức khởi hành, Đô đốc [[Adolf von Trotha]] khẳng định lại với von Reuter chỉ thị không được để cho phe Đồng Minh chiếm các con tàu trong bất kỳ tình huống nào.<ref name=H256>{{Harvnb|Herwig|1980|p=256}}</ref> Hạm đội đã gặp gỡ [[tàu tuần dương hạng nhẹ]] Anh [[HMS Cardiff|''Cardiff'']], vốn đã dẫn đầu các con tàu Đức đi đến điểm gặp gỡ hạm đội Đồng Minh, một lực lượng khổng lồ bao gồm 370 tàu chiến của Anh, Mỹ và Pháp,<ref>{{Harvnb|Herwig|1980|p=254-255}}</ref> vốn sẽ hộ tống hạm đội Đức đến Scapa Flow. Khi bị lưu giữ trong suốt thời gian diễn ra các cuộc đàm phán hòa bình, mà sau này cuối cùng sẽ dẫn đến [[Hiệp ước Versailles]],<ref name=H256/> các khẩu pháo của chúng bị bất hoạt bằng cách tháo bỏ [[khóa nòng]], và con tàu được bảo trì bởi một thủy thủ đoàn gồm số lượng sĩ quan và thủy thủ tối thiểu.<ref>{{Harvnb|Herwig|1980|p=255}}</ref>
 
Một bản in của báo ''[[The Times]]'' cung cấp thông tin cho von Reuter rằng Thỏa thuận Ngừng bắn sẽ hết hiệu lực vào giữa trưa ngày [[21 tháng 6]] năm [[1919]], thời hạn cuối cùng mà Đức phải ký vào Hiệp định hòa bình. Đô đốc Von Reuter đưa đến kết luận người Anh sẽ tìm cách chiếm hữu các con tàu Đức sau khi Thỏa thuận Ngừng bắn hết hiệu lực. Không biết rằng thời hạn của thỏa thuận đã được triển hạn đến ngày [[23 tháng 6]],<ref group=Note"Ghi chú">Đã có sự tranh luận rằng liệu von Reuter có biết là thỏa thuận đã được triển hạn hay không. Đô đốc Anh [[Sydney Fremantle]] cho rằng ông đã thông báo điều này cho von Reuter vào tối ngày [[20 tháng 6]], nhưng von Reuter xác định ông không biết gì về sự tiến triển trong đàm phán. Về tuyên bố của Fremantle, xem Bennett, trang 307; về phát biểu của von Reuter, xem Herwig, trang 256.</ref> ông quyết định [[Đánh đắm Hạm đội Đức tại Scapa Flow|đánh đắm]] các con tàu của mình vào cơ hội thuận tiện đầu tiên có được. Sáng ngày [[21 tháng 6]], Hạm đội Anh rời Scapa Flow tiến hành thực tập huấn luyện; và đến 11 giờ 20 phút Reuter truyền mệnh lệnh này đến các con tàu của mình.<ref name=H256/>''Grosser Kurfürst'' chìm lúc 13 giờ 30. Không giống như các tàu chị em cùng lớp hiện vẫn còn nằm dưới đáy vũng biển, ''Grosser Kurfürst'' được cho nổi lên vào ngày [[29 tháng 4]] năm [[1938]] và được bán để tháo dỡ sau đó tại [[Rosyth]].<ref name=G28/>
 
== Tham khảo ==
=== Ghi chú ===
{{Reflist|group=Note"Ghi chú"}}
=== Chú thích ===
{{Reflist|2}}
Dòng 137:
* {{cite book | last=Tarrant | first=V. E. | title=Jutland: The German Perspective | year=1995 | location=London | publisher=Cassell Military Paperbacks | isbn=0304358487}}
 
{{Lớp thiết giáp hạm König}}
{{các chủ đề|Quân sự|Hàng hải|Đức}}
 
{{Link GA|en}}
 
{{DEFAULTSORT:Grosser Kurfurst (1913)}}
{{Lớp thiết giáp hạm König}}
{{các chủ đề|Quân sự|Hàng hải|Đức}}
 
[[Thể loại:Lớp thiết giáp hạm König]]
[[Thể loại:Thiết giáp hạm của Hải quân Đức]]
Dòng 148:
[[Thể loại:Tàu bị đánh đắm tại Scapa Flow trong Thế Chiến I]]
 
{{Link GA|en}}
{{Liên kết chọn lọc|en}}
 
[[de:SMS Großer Kurfürst (1913)]]
[[en:SMS Grosser Kurfürst (1913)]]