72.718
lần sửa đổi
n (r2.7.2) (Bot: Sửa hu:Scharnhorst osztály (1936)) |
n (clean up, replaced: group=Note → group="Ghi chú" (6) using AWB) |
||
== Xếp lớp ==
Chúng là lớp tàu chiến Đức đầu tiên được Hải quân Đức chính thức phân loại như những thiết giáp hạm (''Schlachtschiff'').<ref>Gröner, trang 31.</ref> Các thiết giáp hạm Đức trước đây chỉ được phân loại là [[tàu chiến tuyến]] (''Linienschiffe''),<ref group=
Đối thủ của họ, [[Hải quân Hoàng gia Anh]], xem chúng như những [[tàu chiến-tuần dương]]<ref>Churchill, trang 245</ref><ref>Vandervat, trang 82</ref> mặc dù sau chiến tranh lại xếp loại chúng như những thiết giáp hạm.<ref name=StaffHistory>BR 1736(48)(2) ''Naval Staff History Second World War, Home Waters and the Atlantic, Volume II, 9th April 1940 – 6th December 1941'', Historical Section Admiralty, pub 20 November 1961. trang 14-15.</ref> Nguồn ''Jane's Fighting Ships 1940'' liệt kê cả hai lớp ''Scharnhorst'' và [[Bismarck (lớp thiết giáp hạm)|''Bismarck'']] như là thiết giáp hạm (''Schlachtschiffe'')".<ref>''Jane's Fighting Ships 1940'', trang 212-213.</ref> Một đối thủ khác, [[Hải quân Hoa Kỳ]], xem chúng như những thiết giáp hạm.<ref name="USN Scharnhorst">{{cite web| title = Scharnhorst (Battleship, 1939-1943) | url = http://www.history.navy.mil/photos/sh-fornv/germany/gersh-s/scharn2.htm | publisher = USN Historical Center | date = 14 March 2001 | accessdate = 19 September 2009}}</ref> Những công trình tham khảo bằng tiếng Anh đôi khi gọi chúng là thiết giáp hạm và đôi khi lại là tàu chiến-tuần dương.<ref group=
== Bối cảnh ==
Vốn đặt ra những điều khoản nhằm để kết thúc Thế Chiến I, [[Hiệp ước Versailles]] đã giới hạn việc chế tạo tàu chiến của [[Hải quân Đức]] (''Kriegsmarine'') ở mức tàu tuần dương có [[trọng lượng choán nước]] không vượt quá {{convert|10000|LT|ST}}. Những sự tranh luận tại Đức về vai trò và kích cỡ của hải quân được tiếp diễn trong suốt những năm [[thập niên 1920|1920]], khi việc tăng cường lực lượng hải quân tại Pháp và Nga đã khiến người Đức bắt đầu thiết kế các tàu chiến chủ lực lớn.<ref>Garzke & Dulin, trang 127</ref> Thiết kế thứ nhất, hoàn tất năm [[1928]], đề nghị một kiểu tàu chiến-tuần dương tải trọng {{convert|17500|LT|ST}} trang bị tám pháo 30,5 cm (12 inch) trên bốn [[tháp pháo]] nòng đôi.<ref>Garzke & Dulin, trang 127-128</ref> Khi [[Adolf Hitler]] lên nắm quyền tại Đức vào năm [[1933]], ông xác định với giới lãnh đạo hải quân rằng ông không có ý định chế tạo một hạm đội lớn để thách thức ưu thế của người Anh trên mặt biển; mối quan tâm chính của Hitler là khả năng của một cuộc chiến tranh giới hạn với Pháp, trong đó có nhu cầu phải bảo vệ các tuyến đường thương mại hàng hải của Đức. Với mục đích này, ông chấp thuận cho chế tạo thêm hai [[tàu tuần dương]] [[Lớp tàu tuần dương D (Đức)|lớp D]] để bổ sung cho ba chiếc tàu chiến bọc thép (''Panzerschiffe'') [[Deutschland (lớp tàu tuần dương)|lớp ''Deutschland'']].<ref name=G&D1128>Garzke & Dulin, trang 128</ref> Những con tàu này sẽ có trọng lượng choán nước 19.000 tấn và có vũ khí trang bị cùng tốc độ như những chiếc ''Panzerschiffe''; tải trọng tăng thêm được sử dụng vào việc tăng cường tăng cường bảo vệ. Hitler mong muốn đi theo cách này nhằm không để bị xem là công khai vi phạm Hiệp ước Versailles. Tuy nhiên, ông đã không nhận thức được rằng những tàu chiến cướp tàu buôn "không thể chìm" này sẽ kích động Anh Quốc nặng nề hơn là các tàu chiến-tuần dương 26.000 tấn trang bị pháo 28,3
[[Tập tin:Gneisenau1942.png|thumb|left|Sơ đồ ''Gneisenau'' mô tả cấu hình của nó vào năm [[1942]]]]
Để đối phó lại các ''Panzerschiffe'' của Đức, Pháp chế tạo hai thiết giáp hạm nhỏ [[Dunkerque (lớp thiết giáp hạm)|lớp ''Dunkerque'']] vào đầu những năm [[thập niên 1930|1930]]. Điều này đến lượt nó lại khiến Hải quân Đức bắt đầu có kế hoạch thiết kế một tàu chiến-tuần dương mạnh mẻ hơn.<ref name=G&D1128/> Từ năm [[1933]], [[Đô đốc]] [[Erich Raeder]], người đứng đầu Hải quân Đức, đã tranh luận nhằm tăng cường hơn nữa chất lượng phòng thủ của ''Panzerschiffe'' và gia tăng sức mạnh tấn công của dàn pháo chính bằng cách bổ sung một tháp pháo thứ ba.<ref name=G&D130/> Đây cũng là quan điểm của ''[[Kriegsmarine]]'', khi cho rằng thiết kế 19.000 tấn là không cân bằng.<ref name="gardiner225"/> Hitler đồng ý với việc tăng cường vỏ giáp bảo vệ và việc phân ngăn bên trong, nhưng từ chối cho phép gia tăng vũ khí. Cuối cùng, vào [[tháng 2]] năm [[1934]], Hitler đồng ý với việc bổ sung một tháp pháo thứ ba.<ref name=G&D130>Garzke & Dulin, trang 130</ref> Con tàu mới sẽ có trọng lượng choán nước {{convert|26000|LT|ST}} và trang bị chín pháo 28,3
Việc chế tạo lớp tàu tuần dương D bị hủy bỏ dọn đường cho ''Scharnhorst'' và ''Gneisenau''.<ref>Gröner, trang 63</ref> ''[[Ersatz]] Elsaß'' và ''Ersatz Hessen'', những cái tên dự định dành cho các tàu tuần dương lớp D, được dành lại cho những con tàu khác; hợp đồng chế tạo được trao cho các xưởng [[Kriegsmarinewerft Wilhelmshaven]] và [[Deutsche Werke]] tại [[Kiel]].<ref name=Groner31/> Công việc chế tạo bị trì hoãn mất khoảng 14 tháng, một phần là do Hitler mong muốn củng cố hiệp ước với Anh Quốc trước khi bắt đầu công việc,<ref name=G&D130/> và một phần bởi nhiều thay đổi trong thiết kế sau khi các con tàu được đặt hàng.<ref name="breyer294">Breyer, trang 294.</ref>
Vì Thỏa thuận Hải quân Anh-Đức cho phép cỡ nòng hải pháo tối đa là 40,6
== Thiết kế ==
''Scharnhorst'' được vận hành bởi ba [[turbine hơi nước]] hộp số [[Brown, Boveri & Cie|Brown, Boveri, & Co]], trong khi ''Gneisenau'' được trang bị ba turbine [[Friedrich Krupp Germaniawerft|Germania]] của hãng Krupp. Chúng dẫn động các trục chân vịt ba cánh đường kính {{convert|4,8|m|ft|abbr=on}}. Hơi nước được cung cấp đến các turbine bởi 12 nồi hơi Wagner đốt dầu áp suất rất cao, tạo ra hơi nước có áp lực đến {{convert|58|atm}} và nhiệt độ cho đến {{convert|450|C|F}}. Hệ thống động lực này có tổng công suất 160.000 mã lực ở 265 vòng quay mỗi phút (rpm), và khi chạy thử máy đã đạt đến công suất 165.930 mã lực ở số vòng quay 280 rpm. Khi quay ngược, động cơ đạt được công suất 57.000 mã lực. Các con tàu được thiết kế để đạt được tốc độ {{convert|31|kn|lk=on}}, cho dù khi chạy thử máy cả hai chiếc đều vượt quá tốc độ thiết kế: ''Scharnhorst'' đạt được {{convert|31,5|kn|abb=on}} và ''Gneisenau'' đạt {{convert|31,3|kn|abbr=on}}. Các con tàu theo thiết kế mang theo {{convert|2800|MT}} dầu đốt; nhưng cùng với các khu vực chứa bổ sung, bao gồm chỗ trống trong lườn tàu giữa đai giáp và [[vách ngăn chống ngư lôi]], đã gia tăng trữ lượng nhiên liệu lên {{convert|5080|MT}}. Với lượng nhiên liệu tối đa mang theo, các con tàu được kỳ vọng sẽ có tầm hoạt động {{convert|8100|nmi|lk=on}} ở tốc độ đường trường {{convert|19|kn|abbr=on}}; tuy nhiên, ''Scharnhorst'' chỉ đạt được {{convert|7100|nmi|abbr=on}} ở tốc độ 19 knot, trong khi ''Gneisenau'' đạt {{convert|6200|nmi|abbr=on}} ở tốc độ này.<ref name=Groner31/>
Nguồn năng lượng điện được cung cấp bởi năm cụm máy phát điện, mỗi cụm bao gồm bốn máy phát diesel và tám máy phát turbine. Bốn máy phát diesel được chia thành hai cặp: bốn chiếc cung cấp công suất 150 [[kilowatt]] (kW) mỗi chiếc và hai chiếc kia là 300
=== Vũ khí ===
[[Tập tin:Scharnhorst guns.jpg|thumb|right|Các khẩu pháo phía trước của chiếc ''Scharnhorst'']]
Lớp ''Scharnhorst'' được chế tạo với chín khẩu pháo [[Hải pháo 28 cm SK C/34|28,3 cm (11,1 inch) SK C/34]] 54,5 caliber bắn nhanh bố trí trên ba [[tháp pháo]] ba nòng, hai phía trước và một phía sau.<ref name=Groner31/> Những khẩu pháo này là một sự cải tiến so với kiểu pháo trước đó 28,3
Những con tàu này trang bị dàn pháo hạng hai gồm mười hai khẩu [[hải pháo 15 cm SK C/28]] L/55 bắn nhanh, được bố trí trên bốn tháp pháo Drh L. C/34 nòng đôi và bốn bệ MPL/35 nòng đơn. Cả kiểu tháp pháo và kiểu bệ đều cho phép hạ nòng pháo cho đến góc −10°; tháp pháo nâng được tối đa cho đến 40° trong khi bệ pháo bị giới hạn ở góc 35°. Các khẩu pháo này bắn ra đầu đạn nặng 45,3
Dàn hỏa lực phòng không bao gồm mười bốn khẩu [[10,5 cm FlaK 38|10,5 cm C/33]] L/65, mười sáu khẩu 3,7
Sau năm [[1942]], sáu ống phóng [[ngư lôi]] 53,3
Cả ''Scharnhorst'' và ''Gneisenau'' đều được trang bị hai bộ [[radar]] [[radar Seetakt|''Seetakt'']]; một được gắn trên tháp điều khiển hỏa lực phía trước bên trên cầu tàu, và bộ thứ hai gắn trên tháp điều khiển dàn hỏa lực chính phía sau. Radar ''Seetakt'' hoạt động ở tần số 368
=== Vỏ giáp ===
[[Tập tin:Bundesarchiv DVM 10 Bild-23-63-46, Schlachtschiff "Scharnhorst".jpg|thumb|right|''Scharnhorst'' trong cảng; có thể thấy rõ bề dày của đai giáp chính]]
Lớp ''Scharnhorst'' được trang bị vỏ giáp bằng [[thép giáp Krupp]]. Sàn tàu bọc thép phía trên dày {{convert|50|mm|in|abbr=on}} và được hậu thuẩn bởi sàn bọc thép chính. Lớp sàn tàu này dày {{convert|20|mm|in|abbr=on}} phía sau, tăng lên 50
[[Tháp chỉ huy]] phía trước có vỏ giáp hông dày 350
Hệ thống bảo vệ dưới nước được thiết kế để chịu đựng cú đánh trúng trực tiếp của một đầu đạn nặng cho đến {{convert|250|kg|lb|abbr=on}}; [[ngư lôi]] phóng từ máy bay của Anh có đầu đạn nhỏ hơn mức này, cho dù những vũ khí phóng từ hạm tàu nổi mạnh mẻ hơn. Hải quân Đức đã tiến hành nhiều thử nghiệm nổ dưới nước toàn diện với những phần của vỏ giáp được cắt ra từ chiếc [[thiết giáp hạm tiền-dreadnought]] cũ [[SMS Preußen (1903)|SMS ''Preußen'']]. Những thử nghiệm đã cho thấy rằng cấu trúc thép hàn chịu đựng tốt hơn sức nổ của đầu đạn 250
Tuy nhiên, sự bảo vệ hông dưới mực nước có nhiều khiếm khuyết. Nó rất chắc chắn ở phần giữa tàu, nhưng lại yếu ở cả hai đầu của “thành trì”; việc bảo vệ dưới nước chỉ có thể ngăn chặn một đầu đạn {{convert|200|kg|lb|abbr=on}} tại những khu vực này. Một điểm yếu đáng kể khác trong thiết kế là sự sắp xếp các vách ngăn chống ngư lôi; nó nối liền với phần dưới của sàn tàu nghiêng ở một góc 10°; hai thanh tán ri-vêt chéo góc sẽ cố định nó tại chỗ. Những thanh này thường xuyên phải chịu đựng một áp lực đáng kể do những lực bẻ cong thông thường của lườn tàu. Khi kết hợp với lực nổ của một đầu đạn ngư lôi, những thanh này không thể chịu đựng được áp lực gia tăng và bị hỏng. Cũng như với độ rộng mạn thuyền chỉ có 30 m, hệ thống bảo vệ sẽ yếu hơn quanh các tháp pháo chính, vì một phần đáng kể khoảng trống trong lườn tàu đã bị chiếm chỗ bởi hầm đạn và bệ tháp pháo.<ref>Garzke & Dulin, trang 186</ref>
''Gneisenau'' được đặt lườn vào ngày [[3 tháng 5]] năm [[1935]] tại xưởng [[Deutsche Werke]] ở Kiel. Nó được hạ thủy vào ngày [[8 tháng 12]] năm [[1936]] và hoàn tất vào ngày [[21 tháng 5]] năm [[1938]].<ref name=Conways43>Sturton, trang 43</ref> Trong khi hạ thủy, con tàu đã phải chịu hư hại nhẹ ở phần đuôi tàu; dây xích hãm tốc độ hạ thủy bị đứt nên con tàu trôi quá xa và bị mắc cạn trên bờ sông đối diện. Sau khi đưa vào hoạt động, ''Gneisenau'' trải qua năm đầu tiên tiến hành các chuyến đi chạy thử máy và huấn luyện tại [[biển Baltic]]. Các chuyến đi đã bộc lộ ra việc bị ướt nước nặng trước mũi và cầu tàu, nên vào [[tháng 1]] năm [[1939]] nó được trang bị một "mũi tàu Đại Tây Dương".<ref>Garzke & Dulin, trang 132</ref> ''Scharnhorst'' được đặt lườn tại xưởng [[Kriegsmarinewerft Wilhelmshaven|Kriegsmarinewerft]] ở [[Wilhelmshaven]], vào ngày [[16 tháng 5]] năm [[1935]]. Nó được hạ thủy vào ngày [[30 tháng 6]] năm [[1936]] và hoàn tất vào ngày [[7 tháng 1]] năm [[1939]].<ref name=Conways43/> Vào giữa năm [[1939]], con tàu tiến hành chạy thử máy tại biển Baltic; và cũng giống như ''Gneisenau'', phần nổi thấp của con tàu đã buộc phải trang bị bổ sung "mũi tàu Đại Tây Dương", vốn hoàn tất vào [[tháng 8]] năm [[1939]]. Trong đợt tái trang bị, nó được bổ sung một hầm chứa máy bay lớn giữa tàu. Chiếc tàu chiến mới rời xưởng tàu vào [[tháng 10]].<ref name=G&D154/>
Vào ngày [[21 tháng 11]], ''Scharnhorst'', ''Gneisenau'', các [[tàu tuần dương hạng nhẹ]] [[Köln (tàu tuần dương Đức)|''Köln'']] và [[Leipzig (tàu tuần dương Đức)|''Leipzig'']] cùng nhiều [[tàu khu trục]] tiến hành một cuộc càn quét giữa [[Iceland]] và [[quần đảo Faroe]]; trong đó các tàu chiến Đức đã đụng độ với [[tàu buôn tuần dương vũ trang]] Anh [[HMS Rawalpindi|HMS ''Rawalpindi'']]. ''Scharnhorst'' đã đánh chìm tàu đối phương, nhưng cũng trúng phải một phát đạn pháo 152
=== Chiến dịch Weserübung ===
Vào ngày [[7 tháng 4]] năm [[1940]], ''Scharnhorst'' và ''Gneisenau'' đã hình thành nên lực lượng hỗ trợ chủ yếu cho cuộc chiếm đóng [[Narvik]] và [[Trondheim]] tại [[Na Uy]] trong quá trình [[Chiến dịch Weserübung]]. Lúc 04 giờ 30 phút ngày [[9 tháng 4]], radar ''Seetakt'' trên chiếc ''Gneisenau'' dò được một đối tượng, và cả hai chiếc được lệnh bước vào vị trí tác chiến. Nữa giờ sau, mục tiêu được xác định là chiếc [[tàu chiến-tuần dương]] cũ [[HMS Renown (1916)|HMS ''Renown'']], vốn nằm trong thành phần hỗ trợ cho một hoạt động [[Chiến dịch Wilfred|rải mìn]] của Anh Quốc. Chiếc tàu chiến-tuần dương Anh thoạt tiên nhắm vào ''Gneisenau'' ở khoảng cách {{convert|11800|m|yd|abbr=on}}. Trong vòng năm phút, ''Gneisenau'' bắn trúng ''Renown'' hai phát, nhưng cũng bị đáp trả hai phát, một phát làm hư hại tháp pháo phía sau của ''Gneisenau'',<ref name=G&D135>Garzke & Dulin, trang 135</ref> trong khi phát kia làm hư hại bộ radar ''Seetakt'' của nó.<ref>Jackson, trang 23</ref> Radar điều khiển hỏa lực của ''Scharnhorst'' gặp trục trặc kỹ thuật, ngăn trở nó có thể đối đầu hiệu quả với ''Renown''. Chiếc tàu chiến Anh đụng độ với ''Scharnhorst'' một lúc ngắn bắt đầu từ 05 giờ 18 phút, cho dù các cú cơ động hiệu quả đã giúp ''Scharnhorst'' né tránh không bị bắn trúng. E ngại các tàu khu trục tháp tùng theo ''Renown'' có thể mở cuộc tấn công bằng ngư lôi, chỉ huy Đức ra lệnh rút lui khỏi trận chiến.<ref name=G&D135/> Đến 07 giờ 15 phút, các tàu chiến Đức đã thoát khỏi chiếc ''Renown'' vốn có tốc độ chậm hơn.<ref name=G&D154/> Trên đường rút lui, ''Scharnhorst'' chịu đựng hư hại ở tháp pháo "A" do nước biển tràn mạnh qua mũi tàu.<ref name=G&D154/> ''Scharnhorst'' và ''Gneisenau'' gặp gỡ [[tàu tuần dương hạng nặng]] [[Admiral Hipper (tàu tuần dương Đức)|''Admiral Hipper'']] trước khi tiếp tục đi đến Wilhelmshaven.<ref name=G&D157>Garzke & Dulin, trang 157</ref>
''Scharnhorst'' và ''Gneisenau'', cùng với ''Admiral Hipper'' và bốn tàu khu trục, lại lên đường vào ngày [[4 tháng 6]]. Sau các hoạt động tại [[Bắc Hải]] mang lại kết quả đánh chìm nhiều tàu vận tải Anh, ''Admiral Hipper'' và các tàu khu trục được cho tách ra để tiếp nhiện liệu tại Na Uy bị chiếm đóng. Lúc 16 giờ 45 phút ngày [[8 tháng 6]], ''Scharnhorst'' và ''Gneisenau'' phát hiện [[tàu sân bay]] Anh [[HMS Glorious (77)|HMS ''Glorious'']], được các tàu khu trục [[HMS Acasta (H09)|HMS ''Acasta'']] và [[HMS Ardent (H41)|HMS ''Ardent'']] hộ tống, ở khoảng cách {{convert|50000|m|yd|abbr=on}}. Các tàu khu trục thả một màn khói trong một nỗ lực nhằm che khuất chiếc tàu sân bay, nhưng các tàu chiến Đức nhanh chóng thu ngắn khoảng cách.<ref name=G&D137>Garzke & Dulin, trang 137</ref> Lúc 17 giờ 26 phút, khoảng cách giữa hai bên đã được thu ngắn còn một nữa, khoảng {{convert|25000|m|yd}}, và cả hai chiếc tàu Đức nổ súng. ''Scharnhorst'' bắn trúng ''Glorious'' ở một cự ly khoảng {{convert|24200|m|yd|abbr=on}}, một trong những phát bắn trúng xa nhất được ghi nhận trong suốt lịch sử hải chiến.<ref name=Navweaps28/><ref group=
Quả ngư lôi đánh trúng đã gây hư hại đáng kể cho ''Scharnhorst'': nhiều ngăn kín nước, bao gồm một phần phòng động cơ bên mạn phải bị ngập nước, nó bị nghiêng 3°, và bị chìm xuống {{convert|3|m|ft|abbr=on}} ở phần đuôi.<ref name=G&D157/> Hai con tàu Đức rút lui về Trondheim, cho dù ''Scharnhorst'' bị giới hạn ở tốc độ {{convert|20|kn}}, chúng đến nơi vào trưa ngày [[9 tháng 6]]. Vào ngày [[11 tháng 6]], 12 [[máy bay ném bom]] [[Lockheed Hudson]] của [[Không quân Hoàng gia Anh]] tìm cách ném bom ''Scharnhorst''; tất cả đều trượt khỏi mục tiêu. Một cuộckhông kích khác, lần này là bởi 15 chiếc [[Blackburn Skua]] xuất phát từ tàu sân bay [[HMS Ark Royal (91)|HMS ''Ark Royal'']] của [[Hải quân Hoàng gia Anh]], tiếp nối vào ngày [[13 tháng 6]]. Máy bay [[Không quân Đức]] (''Luftwaffe'') đã đánh chặn và bắn rơi tám máy bay tấn công; nhưng số còn lại đã vượt qua được hàng rào phòng thủ, một quả bom đã ném trúng đích, nhưng nó không phát nổ. Đến ngày [[20 tháng 6]], công việc sửa chữa tạm thời đã đủ cho phép con tàu lên đường quay trở về Kiel. Hai đợt không kích khác đuổi theo, nhưng hỏa lực phòng không của ''Scharnhorst'' và các tàu hộ tống đã ngăn chặn được chúng. Các báo cáo về sự hiện diện của tàu chiến Anh trong khu vực đã buộc nó phải ẩn náu tại [[Stavanger]] trong hai ngày trước khi tiếp tục hành trình đến Kiel. Công việc sửa chữa được tiến hành trong sáu tháng tiếp theo.<ref name=G&D158>Garzke & Dulin, trang 158</ref>
=== Chiến dịch Berlin ===
Dưới sự chỉ huy của Đô đốc [[Günther Lütjens]], ''Scharnhorst'' và ''Gneisenau'' [[Chiến dịch Berlin|xâm nhập]] ra [[Đại Tây Dương]] vào [[tháng 1]] năm [[1941]] để đánh phá các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Bắc Mỹ và Anh Quốc.<ref name=G&D140>Garzke & Dulin, trang 140</ref> Vào ngày [[8 tháng 2]], chúng phát hiện [[Đoàn tàu vận tải HX 106]], nhưng nó được hộ tống bởi thiết giáp hạm [[HMS Ramillies (07)|HMS ''Ramillies'']], trang bị tám pháo 38
Ngày [[6 tháng 4]], bốn [[máy bay ném ngư lôi]] [[Bristol Beaufort]] đã tấn công ''Gneisenau'' trong cảng; chỉ có một chiếc máy bay thành công, nhưng phát đánh trúng duy nhất này đã gây hư hại đáng kể cho con tàu. ''Gneisenau'' bị ngập khoảng {{convert|3050|MT}} nước, làm nó nghiêng 2° và chìm sâu hơn trong nước. Áp lực mạnh của vụ nổ cũng gây ra nhiều hư hỏng cấu trúc bên trong; các thùng nhiên liệu bị vỡ và hệ thống điện bị hư hại. Một tàu kéo cứu hộ được cho cặp bên mạn để trợ giúp vào việc kiểm soát ngập nước. ''Gneisenau'' được đưa vào ụ tàu để sửa chữa, và công việc bị kéo dài do có thêm các cuộc không kích khác của Anh. Trong đêm [[9 tháng 4|9]]-[[10 tháng 4]], máy bay ném bom tầm cao Anh đã tấn công ''Gneisenau'' lẫn ''Scharnhorst''; chiếc sau thoát được mà không bị hư hại, nhưng chiếc thứ nhất bị đánh trúng bốn lần khiến 72 người thiệt mạng và thêm 90 người khác bị thương.<ref>Garzke & Dulin, trang 143-144</ref>
Trong khi ở trong ụ tàu tại [[La Pallice]] vào ngày [[24 tháng 7]], ''Scharnhorst'' bị nhiều phi đội máy bay ném bom [[Handley Page Halifax]] tấn công; năm quả bom đã trúng đích, bao gồm hai quả bom miểng {{convert|227|kg|lb|abbr=on}} và hai quả bom bán xuyên thép {{convert|454|kg|lb|abbr=on}}.<ref name=G&D159>Garzke & Dulin, trang 159</ref> Hai quả bom 454
=== Chiến dịch Cerberus===
==== Trận chiến mũi North ====
Vào ngày [[20 tháng 12]] năm [[1943]], ''Scharnhorst'' được lệnh đánh chặn đoàn tàu vận tải đi đến Liên Xô tiếp theo, đoàn JW 55B.<ref>Sandler trang 144</ref> Nó chỉ hoạt động phối hợp với năm tàu khu trục; ''Tirpitz'' bị hư hại tronng một cuộc không kích của Anh vào [[tháng 9]], và ''Lützow'' đang được gửi đi sửa chữa định kỳ.<ref name=S&G198>Stephen & Grove, trang 198</ref> Ngày [[25 tháng 12]], vị trí của đoàn tàu vận tải được xác định, và vào 19 giờ 00 con tàu rời cảng dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc [[Erich Bey]]. Tuy nhiên, hạm đội Anh có được một ưu thế đáng kể: họ có khả năng giải được các bộ mật mã của Hải quân Đức, nên họ biết rõ ý định của Bey.<ref>Garzke & Dulin, trang 165</ref> Các tàu tuần dương [[HMS Sheffield (C24)|HMS ''Sheffield'']], [[HMS Belfast (C35)|HMS ''Belfast'']] và [[HMS Norfolk (78)|HMS ''Norfolk'']] được bố trí để ngăn chặn ''Scharnhorst''. Đô đốc [[Bruce Fraser, Nam tước thứ nhất Fraser của North Cape|Bruce Fraser]] bên trên thiết giáp hạm [[HMS Duke of York (17)|HMS ''Duke of York'']] ở cách đó khoảng 270 hải lý, đang tiến đến để chặn đường rút lui của ''Scharnhorst'' sau khi nó đối đầu với ba tàu tuần dương Anh. Ngày [[26 tháng 12]], ''Belfast'' bắt được tín hiệu của ''Scharnhorst'' trên màn hình radar lúc 08 giờ 40 phút; và 40 phút sau trinh sát viên trên ''Sheffield'' trông thấy con tàu ở khoảng cách {{convert|11000|m|yd|abbr=on}}. Không lâu sau đó, ''Belfast'' bắn [[đạn pháo sá́ng]] để chiếu rõ mục tiêu, và ''Norfolk'' khai hỏa các khẩu pháo 20,3
[[Tập tin:Scharnhorst survivors A 021202.jpg|thumb|right|Những người sống sót của ''Scharnhorst'' đang lên bờ tại [[Scapa Flow]]]]
Đến 10 giờ 00, ''Scharnhorst'', sử dụng lợi thế nhanh hơn về tốc độ 4–6 knot, bứt ra khỏi cuộc chiến để tiếp tục truy tìm đoàn tàu vận tải. Đến 12 giờ 00, ''Belfast'' lại phát hiện được ''Scharnhorst'', và sau 20 phút lại tiếp tục trong tầm bắn pháo.<ref>Garzke & Dulin, trang 169</ref> Lần này, ''Scharnhorst'' may mắn hơn trong các loạt đạn pháo; đến 12 giờ 23 phút, ''Norfolk'' bị bắn trúng hai phát đạn pháo 28,3
Để đáp trả, đạn pháo 28
=== Tái cấu trúc ''Gneisenau'' ===
[[Tập tin:Gneisenau-1.jpg|thumb|right|Tháp pháo "C" của ''Gneisenau'' tại Na Uy]]
''Gneisenau'' cũng được dự định để bố trí đến Na Uy, nhưng nó đã bị hư hại nặng trong một cuộc không kích vào đêm [[26 tháng 2|26]]–[[27 tháng 2]] năm [[1942]]. Một quả bom 454
Vào ngày [[4 tháng 4]], cùng với [[tàu phá băng]] ''Castor'' và thiết giáp hạm tiền-dreadnought cũ [[SMS Schlesien|SMS ''Schlesien'']], ''Gneisenau'' rời Kiel đi đến Gdynia. Tại đây công việc cải biến được bắt đầu: mũi tàu hư hại được tháo bỏ, tháp pháo "B" và "C" được tháo dỡ và tháo rời để chuyển đi. Krupp sẽ chế tạo các tháp pháo 38
Con tàu được tháo dỡ mọi vũ khí và bị bỏ xó tại cảng.<ref name=G&D153>Garzke & Dulin, trang 153</ref> Các khẩu pháo 15
== Xem thêm ==
==Tham khảo==
===Ghi chú===
{{Reflist|group=
===Chú thích===
* {{Cite book|editor1-last=Sturton|editor1-first=Ian|title=Conway's All the World's Battleships: 1906 to the Present|year=1987|location=London|publisher=Conway Maritime Press|isbn=0851774482|oclc=246548578}}
* {{Cite book |last=Vandervat|first=Dan|title=The Atlantic campaign|year=1988|location=New York|publisher=Harper & Row|isbn=9780060159672|oclc=}}
{{Lớp thiết giáp hạm Scharnhorst}}
{{link GA|en}}
[[
[[
[[
[[
[[
[[cs:Třída Scharnhorst (1936)]]
|
lần sửa đổi