Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tư duy”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
ZéroBot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.1) (Bot: Thêm ps:اند
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Removing selflinks
Dòng 14:
* Giai đoạn cao cấp: Ý niệm tuỵệt đối phủ nhận tự nhiên và trở về với sự tư biện của tư duy và tiếp diễn trong tư duy và trở thành "tinh thần tuyệt đối". Ở giai đoạn này, tư duy phát triển đến mức cao nhất, bao gồm cả ý thức cá nhân, ý thức xã hội dưới các hình thức như tôn giáo, nghệ thuật và triết học.<ref>Heghen. Encyclopédie Philosophie. Etrangère Expess. Moscou. 1960.</ref>
 
Theo triết học duy vậy biện chứng, tư duy xuất hiện trong quá trình [[sản xuất]] [[xã hội]] của [[con người]]. Trong quá trình đó, con người [[so sánh]] các [[thông tin]], [[dữ liệu]] thu được từ [[nhận thức cảm tính]] hoặc các [[ý nghĩ]] với nhau. Trải qua các quá trình [[khái quát hóa]] và [[trừu tượng hóa]], [[phân tích]] và [[tổng hợp]] để rút ra các [[khái niệm]], [[phán đoán]], [[giả thuyết]], [[lý luận]] .v.v... Kết quả của quá trình [[tư duy]] bao giờ cũng là sự [[phản ánh]] khái quát các thuộc tính, các mối [[liên hệ]] cơ bản, phổ biến, các [[quy luật]] không chỉ ở một [[sự vật]] riêng lẻ mà còn ở một nhóm sự vật nhất định. Vì vậy, tư duy bao giờ cũng là sự giải quyết vấn đề thông qua những [[tri thức]] đã nắm được từ trước.<ref> Từ điển triết học. NXB Khoa học xã hội. Hà Nội. 1981.</ref>
 
Tư duy bắt nguồn từ hoạt động tâm lý. Hoạt động này gắn liền với phản xạ sinh lý là hoạt động đặc trưng của hệ thần kinh cao cấp. Hoạt động đó diễn ra ở các động vật cấp cao, đặc biệt biểu hiện rõ ở thú linh trưởng và ở người. Nhưng tư duy với tư cách là hoạt động tâm lý bậc cao nhất thì chỉ có ở con người và là kết quả của quá trình lao động sáng tạo của con nguời. Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, lao động là một trong các yếu tố quyết định để chuyển hóa vượn có dạng người thành con người. Từ chỗ là một loài động vật thích ứng với tự nhiên bằng bản năng tự nhiên, con người đã phát triển sự thích ứng đó bằng bản năng thứ hai là tư duy với năng lực trừu tượng hóa ngày càng sâu sắc đến mức nhận thức đuợc bản chất của hiện tượng, quy luật của tự nhiên và nhận thức đựoc chính bản thân mình. <ref>M. Rozenthan và P. Iudin. Từ điển triết học. NXB ngoại văn. Maskva. 1955. Bản dịch và in lần thứ 3 của NXB Sự thật. Hà Nội. 1978</ref>