Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng đế Đức”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi |
nKhông có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 21:
'''Hoàng đế Đức''' ([[tiếng Đức]]: '''''Deutscher Kaiser''''', nhiều tài liệu cũng viết là '''[[Kaiser]]'''<ref>Charles B. Strozier, ''The Leader: Psychological Essays'', trang 83</ref><ref name="berger104">Stefan Berger, Mark Donovan, Kevin Passmore, ''Writing National Histories: Western Europe Since 1800'', trang 104</ref>) là tước hiệu chính thức của [[nguyên thủ quốc gia]] hay nói cách khác là [[vua]] của [[Đế quốc Đức]], mở đầu với sự đăng quang của [[Hoàng đế]] [[Wilhelm I của Đức|Wilhelm I]] (còn gọi là Wilhelm Đại Đế<ref name="berger104"/>) trong cuộc [[Chiến tranh Pháp-Phổ]] vào ngày [[18 tháng 1]] năm [[1871]] tại [[cung điện Versailles]], và kết thúc với sự kiện Hoàng đế [[Wilhelm II của Đức|Wilhelm II]] chính thức thoái vị vào ngày [[18 tháng 11]] năm [[1918]]. Trong suốt [[lịch sử]] tồn tại của mình, Đế quốc Đức đã trải qua ba đời Hoàng đế thuộc [[triều đại]] [[nhà Hohenzollern]] của [[Vương quốc Phổ]].<ref name="Cook345"/> Hoàng đế Đức được xem là vị vua hùng mạnh nhất của [[châu Âu]] trong thời kỳ ấy.<ref>[[Otto Bismarck]] (Fürst von), ''The Kaiser vs. Bismarck: suppressed letters by the Kaiser and new chapters from the autobiography of the Iron Chancellor'', trang XI</ref> Song, nhiều tài liệu cũng ghi nhận các vị [[Hoàng đế La Mã Thần thánh]] là '''Hoàng đế Đức'''. <ref>Mehmet Sinan Birdal, ''The Holy Roman Empire and the Ottomans: From Global Imperial Power to Absolutist States'', trang 87</ref><ref>Nina Berman, ''German Literature on the Middle East: Discourses and Practices, 1000-1989'', trang 27</ref>
== Khởi thủy ==
Dòng 29:
Lễ thành lập Đế quốc Đức diễn ra ở [[cung điện Versailles]] ([[Pháp]]) vào năm [[1871]], và không phải là ngẫu nhiên mà Bismarck chọn nơi này. Như mọi học sinh Đức đều biết, một [[thế kỷ]] trước thời [[Napoléon Bonaparte]], vua Pháp [[Louis XIV của Pháp|Louis XIV]] - người đã xây nên cung điện Versailles - đã [[xâm lược]] nước Đức, lăng mạ các Vương hầu Đức. Qua đó, sự kiện này thể hiện sự "trả đũa" của người Đức đối với các cuộc xâm lăng của Louis XIV và Napoléon, cũng như là sự lăng nhục mà người Phổ giành cho Pháp - quốc gia lớn mạnh nhất châu Âu đã bị Phổ đánh bại trong cuộc [[Chiến tranh Pháp-Phổ]].<ref> Alan Davies, ''The Crucified Nation: A Motif in Modern Nationalism'', trang 56</ref><ref name="tongUe4">Neil Tonge, ''The Rise of the Nazis'', trang 4</ref> Với cuộc đăng quang này, [[Liên bang Bắc Đức]] ('''''Norddeutscher Bund''''') được chuyển đổi thành [[Đế quốc Đức]] ('''''Deutsches Kaiserreich'''''). Đế quốc này là một [[Liên bang|quốc gia Liên bang]]; Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia và cũng là vị [[Chủ tịch]] của các vua chúa Liên bang (các vị [[Vua|Quốc vương]] xứ [[Vương quốc Bayern|Bayern]], [[Vương quốc Württemberg|Württemberg]], [[Vương quốc Sachsen|Sachsen]], các [[Đại Công tước]] xứ [[Đại Công quốc Baden|Baden]], [[Mecklenburg]], [[Đại Công quốc Hesse|Hesse]], cũng như nhiều Công quốc do Vương công hoặc [[Công tước]] cai quản, các [[thành phố tự do]] [[Thành phố tự do Hamburg|Hamburg]], [[Thành phố tự do Lübeck|Lübeck]] và [[Bremen (bang)|Bremen]]).
Wilhelm I luôn thỏa mãn với việc trị vì đất nước trong khi Bismarck thực sự cầm quyền.<ref>Hastings Eells, ''Europe since 1500'', trang 159</ref> Trong lịch sử Đệ nhị Đế chế Đức có năm [[1888]] được gọi là là "Năm ba hoàng đế" do đó là năm Hoàng đế Friedrich III lên kế vị vua cha Wilhelm I trong một thời gian ngắn rồi mất, để lại ngôi Hoàng đế cho con ông là Wilhelm II.<ref>Nick Yapp, Nicholas Yapp, ''Audrey Hepburn'', trang 13</ref> Ông một thời là vị nguyên thủ hùng mạnh nhất ở [[châu Âu]].<ref name="yenne14"/>
Chữ "the [[Kaiser]]" được dùng phổ biến trong các tài liệu [[tiếng Anh]], để chỉ Hoàng đế Wilhelm II nước Đức.<ref>Nigel John Ashton, Duco Hellema, ''Unspoken Allies: Anglo-Dutch Relations Since 1780'', trang 80</ref><ref>Ronald Pawly, ''The Kaiser's Warlords: German Commanders of World War I'', trang 80</ref>
|