Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mặt trận phía Đông (Thế chiến thứ nhất)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''{{Infobox Military Conflict
|conflict=Mặt trận phía Đông
|partof=[[Chiến tranh thế giới thứ nhất]]
Dòng 18:
{{Campaignbox Russian Front}}
{{Campaignbox World War I}}
'''Mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ nhất)''', tức là cuộc '''Chiến tranh Nga - Đức lần thứ nhất''',<ref>Bennett Kovrig, ''Communism in Hungary: from Kun to Kádár'', trang 153</ref> bao gồm các chiến trường của [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] ở [[Đông Âu]] và [[Trung Âu]]. Mặt trận phía Đông và [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Tây]] của cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất tuy có sự khác nhau về [[địa lý]] nhưng diễn ra song song với nhau và có những ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Mặt trận phía đông bắt đầu từ [[tháng 8]] [[1914]] khi [[Đế chế Đức]] tuyên chiến với [[Đế quốc Nga]] và kết thúc vào [[tháng 3]] [[1918]] sau [[hòa ước Brest-Litovsk]] giữa nước [[Nga Xô Viết]] và [[Đế chế Đức]]. Chiến thắng trên Mặt trận phía Đông đã mang lại cho nước Đức thêm nhiều lãnh thổ. <ref name="ronpowly20"/>
 
Chiến tuyến ở mặt trận phía đông trải dài hơn mặt trận phía tây. Chiến trường kéo dài theo chiều ngang từ [[biển Baltic]] ở phía tây cho đến [[Moskva]] ở phía đông khoảng 1200 kilometers và trải dài theo chiều dọc từ [[Saint Petersburg]] ở phía bắc cho đến [[biển Đen]] ở phía nam khoảng 1.600 kilometers. Điều này cũng ảnh hưởng đến cảnh quan chiến trường ở mặt trận này. Trong khi ở mặt trận phía tây là hệ thống [[chiến hào]] dày đặc do đặc điểm [[chiến tranh trận địa]] thì ở mặt trận phía đông chiến tranh được tiến hành cơ động hơn nên hệ thống chiến hào không phổ biến bằng. Và cũng do chiến tuyến quá rộng nên việc chọc thủng [[phòng tuyến]] là dễ dàng hơn so với mặt trận phía tây vì mật độ quân thưa thớt và hệ thống [[thông tin liên lạc]] kém phát triển nên phe phòng thủ khi mất chiến tuyến không kịp gọi quân tiếp viện đến để lập phòng tuyến mới phía sau. 1 đặc điểm nữa là [[địa hình]] ở mặt trận này là đa phần đất rắn nên khó có thể xây dựng các chiến hào trong khi ở mặt trận phía tây đa phần là đất mềm và bùn.
Dòng 29:
 
=== 1914 ===
Theo [[kế hoạch Schlieffen]] mà [[đế quốc Đức]] đề ra trước cuộc chiến thì ở giai đoạn đầu của cuộc chiến mặt trận phía đông chỉ để phòng thủ trước các đợt tấn công của quân [[Nga]] và khi giải quyết xong nước [[Pháp]] ở [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận phía tây]] sẽ quay sang tiêu diệt đế quốc Nga kết thúc sớm [[chiến tranh]]. Kế hoạch này của người Đức dựa trên việc [[quân đội Nga]] sẽ không tiến hành tổng động viên và tấn công kịp thời nhưng đây là điều sai lầm vì quân Nga đã có sự cách tân đáng kể nên việc huy động và triển khai quân đã diễn ra nhanh hơn so với dự tính của người Đức. Phòng thủ tại [[Đông Phổ]], vị trí nằm giữa biên giới Nga và Đức là [[tập đoàn quân]] số 8 của tướng [[Maximilian von Prittwitz]]. Kế hoạch của [[quân đội Áo-Hung]] cũng tương tự như người Đức khi quân đội Áo-Hung để 1 [[phương diện quân]] đóng tại [[Galicia]] để phòng thủ trước quân Nga.
 
==== Chiến trường Đông Phổ ====
Ngay sau [[khi chiến tranh]] bắt đầu, 2 [[tập đoàn quân]] số 1 do [[Paul Rennekampf]] chỉ huy và số 2 [[Alexander Samsonov]] chỉ huy đã ngay lập tức tiến đánh [[Đông Phổ]], nơi có 150 000 quân Đức. Rennekampf từ Nga đánh vào mặt đông của Đông Phổ còn Samsonov từ [[Ba Lan]] tấn công vào mặt bắc. Trong [[trận Gumbinnen]] diễn ra vào ngày [[20 tháng 8]], tập đoàn quân số 1 của Nga đã đánh bại tập đoàn quân số 8 của Đức đóng tại Đông Phổ khiến quân Đức phải rút chạy và bỏ Đông Phổ về tay quân Nga. Sau thất bại này, người Đức đã đưa [[Paul von Hindenburg]] làm [[tổng tư lệnh]] quân Đức ở mặt trận phía đông và [[Ludendroff]] làm [[tham mưu trưởng]] cùng với việc rút 1 số [[sư đoàn]] từ [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận phía tây]] về để tăng cường sức mạnh. Chính điều đó đã khiến cho Quân đội Đức mất ưu thế về quân số trên Mặt trận phía Tây, và bị quân [[Đệ tam Cộng hòa Pháp|Pháp]] chặn chân trong [[trận sông Marne lần thứ nhất]]. <ref name="corfieldja13">Jamie H. Cockfield, ''With Snow on Their Boots: The Tragic Odyssey of the Russian Expeditionary Force in France During World War I'', trang 13</ref>
[[Tập tin:Hindenburg-ludendorff.jpg|nhỏ|trái|[[Paul von Hindenburg]] (left) và [[Erich Ludendorff]], những người hùng của nước Đức sau [[trận Tannenberg]]]]
Hindenburg và Ludendorff đã tập trung quân để tiêu diệt từng cánh quân 1 của người Nga. Trước khi 2 người này đến Đông Phổ thì sĩ quan tổng tham mưu của Đức là [[Max von Hoofman]] sau khi nghe tin Rennekampf có ý đồ ngừng tiến quân đã cho rút các lực luợng đang chiến đấu với Rennekampf tập trung về [[Tannenberg]] để chờ tập đoàn quân số 2 của Samsonov đang từ [[Ba Lan]] tiến đến. Ngày [[26 tháng 8]], [[trận Tannenberg]] mở màn. Samsonov biết đang lâm nguy nên cố thủ chờ quân của Rennekampf đến cứu nhưng không được. Ngày [[29 tháng 8]], Samsonov [[tự sát]] và đến ngày [[30 tháng 8]] thì [[tập đoàn quân]] số 2 hoàn toàn bị đập tan với số thương vong là 30 000 và 95 000 quân bị bắt. Những vị thống soái có công chiến thắng lừng lẫy - Hindenburg và Ludendorff dạt dào niềm vinh quang.<ref name="ronaldpawly"/> Trận Tannenberg là thảm bại của quân Nga trong năm [[1914]]. Thậm chí, chiến thắng huy hoàng này còn được xem là thắng lợi quyết định hơn cả của Quân đội Đế chế Đức trong suốt cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất.<ref name="ronaldpawly">Ronald Pawly, ''The Kaiser's warlords: German commanders of World War I'', trang 45</ref> Sau trận này thì đến ngày [[11 tháng 9]], quân Đức tấn công và chiếm được nơi đóng quân của tập đoàn quân thứ nhất Nga. Ngày [[13 tháng 9]], tập đoàn quân này rút khỏi Đông Phổ và tổn thất 110 000 người. Chiến dịch Đông Phổ kết thúc với thất bại của người Nga.
 
Đến cuối năm 1914, quân Nga và quân Đức vừa tăng viện từ [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận phía tây]] lại chạm trán nhau tại miền trung [[Ba Lan]], phía tây [[sông Vistula]] trong các [[trận sông Vistula]] và [[trận Łódź]]. Các trận đánh này kết thúc với lợi thê thuộc về người Đức nhung quân Đức đã không thể tiến xa thêm nữa vào [[lãnh thổ]] [[Nga]].
 
==== Chiến tuyến Tây Bắc ====
Trong khi quân Nga thất bại tại [[Đông Phổ]] thì tại [[Galicia]], [[quân đội Nga]] kiểm soát được phần lớn nơi này vào cuối năm [[1914]]. Chỉ huy quân Nga tại chiến tuyến Tây Bắc là [[Nikolay Ivanov]] và [[Aleksey Brusilov]]. [[Tháng 9]] 1914, quân Nga đánh bại [[quân đội Áo-Hung]] trong [[trận Lemberg]] và bắt đầu vây hãm [[thành phố]] [[Przemysl]]. Quân Nga chiếm được nơi này vào [[tháng 3]] [[1915]]. Kết thúc năm 1914, quân đội Áo-Hung bị đánh bại liên tiếp và quân Nga tiến sát đến chân [[núi Carpathian]].
 
Như vậy năm 1914, mặt trận phía đông kết thúc với thắng lợi lớn của người Đức nhưng buộc họ phải điều động nhiều [[sư đoàn]] từ [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận phía tây]] sang, khiến chiến tranh ngày càng kéo dài và quy mô mặt trận phía đông ngày càng được mở rộng.
 
=== 1915 ===
[[Tập tin:EasternFront1915b.jpg|300px|nhỏ|250px|Mặt trận phía đông [[1915]]]]
Đến năm [[1915]], bộ chỉ huy quân Đức và quân Áo quyết định cùng nhau tác chiến thực hiện cuộc tấn công lớn vào quân Nga, buộc [[đế quốc Nga]] phải đầu hàng rồi chuyển sang [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận phía tây]] tiêu diệt quân [[Pháp]] và [[Anh]]. Do đó đầu năm 1915 quân Đức điều 1 số lớn [[binh đoàn]] từ mặt trận phía tây sang và chuyển sang phòng thủ ở mặt trận phía tây. Từ [[tháng 1]] đến [[tháng 3]], quân Nga bị quân Đức đánh bại tại [[trận hồ Masurian lần thứ hai]], phải rút khỏi Đông Phổ nhưng chiếm được [[thành phố]] [[Przemysl]] của [[Áo-Hung]], củng cố [[Galicia]] và uy hiếp [[Hungary]]. Điều này càng thúc đẩy cuộc tấn công của quân Đức. Đến cuối [[tháng 4]] quân Đức đã tập trung 1 lực lượng hùng hậu tại khu vực nằm giữa thượng du [[sông Wisla]] và [[núi Carpathian]] bao gồm 16 [[sư đoàn]] [[bộ binh]], 2 [[sư đoàn]] [[kị binh]], 1140 khẩu [[đại bác]] và 1000 khẩu [[đại bác hạng nặng]].
 
Ngày [[2 tháng 5]], tướng [[August von Mackensen]] bất ngờ tấn công các cứ điểm của quân Nga giữa [[Gorlice]] và [[Tarnow]]. Do quân Nga đang trong tình trạng khan hiếm trầm trọng về đạn dược nên đó chỉ trong 2 tuần, quân Nga đã phải rút lui trên 1 chiến tuyến dài 160 cây số. Trong 1 tháng, Quân đội Đức đã tiến gần 100 dặm và bắt làm tù binh gần 400 000 lính Nga. Đến tháng 7 thì [[Đại tướng]] [[Falkenhayn]] ra lệnh cho [[Hindenburg]] từ phia bắc và Mackensen từ phia nam đánh đuổi quân Nga ra khỏi [[Ba Lan]]. Ngày [[5 tháng 8]] 1915, [[quân đội Đức]] chiếm [[Warsaw]], [[thủ đô]] Ba Lan. Tướng Mackensen - với thắng lợi hoành tráng của ông, trở thành vị thống soái nổi tiếng nhất của Quân đội Đế chế Đức chỉ sau Hindenburg. Vào này [[10 tháng 5]] năm 1915, ông nhận [[Huy chương Đại Bàng Đen]]. <ref> Ronald Pawly, ''The Kaiser's warlords: German commanders of World War I'', trang 52</ref>
Dòng 53:
=== 1916 ===
[[Tập tin:Brusilov_Aleksei_in_1917.jpg|frame|Tướng Aleksei Brusilov]]
Đến năm [[1916]], [[quân đội Đức]] theo kế hoạch của [[Falkenhayn]] tập trung quân lực sang [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận phía tây]] để tiêu diệt [[quân đội Pháp]], mà trọng điểm là [[Verdun]]. [[Trận Verdun]] bắt đầu từ ngày [[21 tháng 2]] 1916 là cuộc đại chiến hao tốn rất lớn nhân lực của cả Đức và Pháp. Trước tình hình đó, để giải nguy cho mặt trận phía tây và lợi dụng [[quân đội Áo-Hung]] đang chuyển quân sang [[mặt trận Ý]], bộ chỉ huy quân Nga quyết định phát động 1 cuộc tấn công vào các [[phòng tuyến]] của quân đội Áo-Hung tại [[Galicia]] và người chỉ huy cuộc tấn công này là tướng [[Aleksey Brusilov]].
 
Ngày [[4 tháng 6]] 1916, [[cuộc tổng tấn công của tướng Brusilov]] tại mặt trận phía đông bắt đầu. Chỉ trong vòng vài ngày, toàn bộ các chiến tuyến của quân Áo tại Galicia đã tan vỡ. Đến ngày [[20 tháng 9]], cuộc tổng tấn công này chấm dứt khi thương vong của lính Nga ngày càng tăng và sau cuộc tổng tấn công này, thương vong của quân đội Áo-Hung là 1,5 triệu người và 400 000 người bị bắt làm [[tù binh]] còn về phía Nga là 1.4 triệu người.<ref>Robin Prior, Trevor Wilson -The First World War tr 116 NXB Cassell</ref>g. Thắng lợi này của quân Nga tại mặt trận phía đông đã ảnh hưởng rất lớn đến kết cục của cuộc chiến tranh này vì đã ngăn chặn được các cuộc cuộc tấn công của quân đội Áo-Hung tại mặt trận Italy, cải thiện tình hình ở mặt trận phía tây làm cho quân Đức gặp thêm khó khăn trong việc tấn công Verdun, tạo điều kiện cho liên quân Anh-Pháp phản công tại [[trận Somme (1916)|trận Somme]]. Cuối cùng nó đã thúc đẩy [[Romania]] từ chỗ trung lập đã quyết định tham gia cuộc chiến theo khối [[Hiệp ước]]. Tuy làm cho quân Áo-Hung suy sụp nhưng phía Nga cũng bị thiệt hại nặng và kiệt sức, không thể khai thác được thắng lợi.<ref>Robin Prior, Trevor Wilson -The First World War tr 116 NXB Cassell</ref>