Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trương Khiên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dhgtvt171 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 3:
 
==Đi sứ Tây Vực lần 1==
Năm Kiến Nguyên đầu tiên (140 TCN) thời [[Hán Vũ đế]], Trương Khiên làm Lang. Khi ấy có tù binh Hung Nô khai rằng Vương của nước [[Đại Nguyệt Chi|Đại Nguyệt Thị]] bị [[Hung Nô]] chém đầu, dùng làm đồ đựng rượu. Triều đình tin lời ấy, muốn sai sứ đến Đại Nguyệt Thị đề nghị liên kết chống Hung Nô. Trương Khiên đáp ứng lời kêu gọi, nhận làm sứ giả đi Tây Vực. Năm Kiến Nguyên thứ 2 (139 TCN), ông cùng hơn trăm ngườitình nguyện viên được kẻ nô bộc thuộc thị tộc Đường Ấp, dân tộc Hung Nô là Cam Phụ (còn gọi là Đường Ấp Phụ) dẫn đường, xuất phát từ Lũng Tây <ref>Nay là [[Lâm Thao]], [[Cam Túc]]</ref>. Giữa đường, Trương Khiên bị Hung Nô bắt được, giải đến nơi ở của [[Thiền vu|Đan Vu]] <ref>Nay là phụ cận [[Hô Hòa Hạo Đặc]]</ref>, giảmgiam lỏng hơn 10 năm, đã lấy vợ sinh con nhưng vẫn không quên thân phận và nhiệm vụ của mình.
 
Trương Khiên nhân lúc người Hung Nô không đề phòng mà trốn đi, theo đường của nước [[Xa Sư]] <ref>Nay là vùng thung lũng [[Thổ Lỗ Phiên]], [[Tân Cương]]</ref>, tiến vào nước [[Yên Kỳ (nước)|Yên Kỳ]] <ref>Nay là 1 dải [[Yên Kỳ]], Tân Cương</ref>, lại từ Yên Kỳ vượt [[Sông Tarim|sông Tháp Lý Mộc]], đi qua các nước [[Quy Từ]] <ref>Nay là phía đông [[Khố Xa]], Tân Cương</ref>, [[Sơ Lặc]] <ref>Nay là [[Khách Thập]], Tân Cương</ref>, vượt qua [[Thông Lĩnh]] <ref>Xưa gọi là Thông Lĩnh, nay gọi là cao nguyên [[Dãy núi Pamir|Mạt Mễ Nhĩ]]</ref>, đến được [[Đại Uyển]] <ref>Nay là thung lũng [[Fergana|Phí Nhĩ Kiền Nạp]]</ref>, được người Đại Uyển đưa đến [[Khang Cư]] <ref>Nay là khoảng giữa [[Hồ Balkhash|hồ Ba Nhĩ Khách Thập]] và [[Biển Aral|Hàm Hải]], thuộc về nội địa của hai nước [[Uzbekistan]] và [[Tajikistan]]</ref>, cuối cùng đến được [[Đại Nguyệt Thị]].
Dòng 12:
 
==Khai phá tây nam==
Trong thời gian ở Đại Nguyệt Thị, Trương Khiên từng vượt qua bờ nam sông Quy, đến thành Lam Thị <ref>Nay là [http://en.wikipedia.org/wiki/Wazirabad Ngõa Tề Lạp Ba Đức], [[Afghanistan]]</ref>, trông thấy sản vật của đất Thục ([[Tứ Xuyên]]), tìm hiểu thì được biết là do thương nhân của nước Thân Độc <ref>Còn gọi là [[Thiên Trúc]], tức [[Ấn Độ]]</ref> ở phía nam Đại Hạ mang đến. Từ đây, ông cho rằng nước Thân Độc không hề cách xa nhà Hán, đến được Thân Độc thì có thể đến được Đại Uyển, Khang Cư, Nguyệt Thị và An Tức <ref>Chính là [[Ba Tư]], nay là [[Iran]]</ref>.
 
Sau khi trở về, Trương Khiên kiến nghị sai sứ từ đất Thục đi qua [[Dạ Lang]] <ref>Nay là phía đông huyện [[Đồng Tử]], thành phố [[Tuân Nghĩa]], [[Quý Châu]]</ref> về phía tây nam, tìm đường đến Thân Độc. Hán Vũ đế muốn mở rộng tầm ảnh hưởng chính trị của mình, nhằm cô lập Hung Nô, nên lập tức đồng ý, phái ông đến quận Kiền Vi <ref>Nay là [[Nghi Tân]], [[Tứ Xuyên]]</ref>, chủ trì việc này.
 
Năm Nguyên Thú đầu tiên (122 TCN), Trương Khiên phái 4 đội lữ hành từ các địa điểm nay là [[Thành Đô]] và [[Nghi Tân]] xuất phát, đích đến là Thân Độc. Cả 4 đội đi được 1000 – 2000 dặm đều vì gặp trở ngại mà quay về. Tuy ý tưởng này không thành công, nhưng Trương Khiên đã tiến một bước dài trong việc tìm hiểu vùng đất tây nam, đồng thời phô trương sự lớn mạnh của nhà Hán với các nước [[Điền]], Dạ Lang, hơn hẳn những người đi trước là [[Đường Mông]], [[Tư Mã Tương Như]],... tạo điều kiện thuận lợi cho nhà Hán thiết lập châu, quận những năm sau đó.
 
==Chinh thảo Hung Nô==
Dòng 31:
 
==Đánh giá==
Trương Khiên 2 lần đi sứ, Tây Vực, vượt muôn trùng hiểm nguy, ở lần đầu tiên, hơn trăm người đi chỉ còn 2 người trở về. Dựa vào con đường mà ông tìm ra, chính là “con đương Tơ Lụa” nổi tiếng, các thương nhân Đông – Tây đi lại buôn bán, nên người Trung Quốc mới biết đến [[ngựa Hãn Huyết]], [[Nho|bồ đào]], [[Chi Linh lăng|mục túc]], [[Thạch lựu|thạch lựu]], [http://en.wikipedia.org/wiki/Juglans hồ đào], [[Vừng|hồ ma]],... Công lao của ông được [[Sử ký]] ca ngợi là '''tạc không''' (nghĩa là mở mang đường lối cho thông suốt).
 
Việc làm của Trương Khiên đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử giao lưu với các dân tộc khác của người Trung Quốc, xé toang truyền thống xã hội “phong bế tự bảo”. Ông gặp nguy khó không đánh mất khí tiết, không rời bỏ nhiệm vụ, được [[Lương Khải Siêu]] ca ngợi “''kiên nhẫn lỗi lạc kì nam tử, thế giới sử khai mạc đệ nhất nhân''”.
 
==Tham khảo==