Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trung kỳ Trung Cổ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Bot: Tự động thay thế văn bản (-Rome +Roma)
Xqbot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.3) (Bot: Sửa fr:Moyen Âge central; sửa cách trình bày
Dòng 1:
[[FileTập tin:1099jerusalem.jpg|thumb|300px|Các chiến binh Thiên chúa giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất.]]
'''Giai đoạn giữa Trung Cổ''' ([[tiếng Anh]]: ''High Middle Ages'') là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ 11, 12, và 13. Trước nó là [[giai đoạn đầu Trung Cổ]] và sau nó là [[giai đoạn cuối Trung Cổ]] (kết thúc khoảng năm 1500). Xu hướng chủ đạo trong giai đoạn giữa Trung Cổ là sự gia tăng dân số của [[châu Âu]], qua đó mang lại những sự thay đổi lớn lao về mặt chính trị - xã hội so với trước đó.<ref>http://www.fordham.edu/halsall/source/pop-in-eur.html</ref><ref>Robert Bartlett, The Making of Europe</ref> Tới năm 1250, dân số tăng mạnh đã thúc đẩy nền kinh tế, đạt đến những mức độ không thể đạt được mãi tới thế kỷ 19. Sự tăng dân số này sau đó bị kìm hãm lại trong giai đoạn cuối Trung Cổ do hậu quả của nhiều trận dịch bệnh, chiến tranh và kinh tế sút kém.
 
Dòng 10:
Giai đoạn giữa Trung Cổ cũng đưa tới các công trình nghệ thuật, khoa học và tôn giáo. Sự tái khám phá các nghiên cứu của [[Aristotle]] đã giúp [[Thomas Aquinas]] và một số người khác phát triển nền [[triết học kinh viện]]. Nhiều [[kiến trúc Gothic]] đáng chú ý cũng được tạo ra trong thời kỳ này.
 
== Các sự kiện lịch sử và chính trị ==
=== Anh ===
{{Main|Nước Anh thời Trung Cổ}}
[[FileTập tin:Battle of Hastings.jpg|thumb|300px|Trận Hastings qua minh họa của [[Philip James de Loutherbourg]]. Trận chiến diễn ra vào ngày 14 tháng 10 năm 1066. Quân đội Anh đại bại và bản thân vua Harold II cũng tử trận tại đây. Công tước William của Normandy sau đó trở thành vua Anh.]]
Một làn sóng tấn công mới của những người Scandinavia vào cuối thế kỷ 10 đã dẫn tới việc nước Anh bị chinh phục bởi vua [[Sweyn Forkbeard]] vào năm 1013. Sau khi vua Sweyn Forkbeard qua đời, con ông là [[Canute Đại đế]] đã cai trị một quốc gia rộng lớn bao gồm Anh, Đan Mạch và Na Uy. Mặc dù vậy, vương triều của những người [[Anglo-Saxon]] được phục hồi lại trong một thời gian ngắn với sự lên ngôi của vua [[Edward Người xưng tội]] vào năm 1042. Ông cũng được xem là vị vua chính thống cuối cùng của triều đại [[Wessex]].
 
Dòng 19:
 
Tới thế kỷ 12, [[vương triều Plantagenet]] (có xuất xứ từ [[Anjou]], Pháp) lên thay thế những người [[Norman]] để cai trị nước Anh. Trước khi lên ngôi ở Anh vào năm 1154, vị vua đầu tiên của triều Plantagenet là [[Henry II của Anh|Henry II]] đã được thừa hưởng vùng [[Normandy]] từ mẹ mình là Nữ hoàng Mathilda và vùng Anjou từ cha mình là [[Geoffrey xứ Anjou]].<ref name="Harvey trang 49">Harvey, ''The Plantagenets'', trang 49</ref> Vào năm 1152, ông cưới [[Eleanor xứ Aquitaine]], từng là Hoàng hậu Pháp và lúc đó đang thống trị Tây Nam nước Pháp.<ref name="Harvey trang 49"/> Sau khi đánh dẹp cuộc nổi loạn của Hoàng hậu Eleanor và các con trai vào năm 1173-1174, Quốc vương Henry II buộc [[Brittany]] phải trở thành chư hầu cho mình, qua đó tự mình cai quản luôn nửa tây của nước Pháp. Thế lực của ông trên đất Pháp khi đó còn hùng mạnh hơn chính vua Pháp. Đất nước của vua Henry II sau đó được các nhà sử học gọi là [[Đế chế Angevin]],<ref>Norgate, Kate, [http://www.questia.com/PM.qst?a=o&d=86049679 ''England Under the Angevin Kings''].</ref> mặc dù thuật ngữ này còn nhiều tranh cãi.<ref>Martin Aurell - L'empire des Plantagenet page 10</ref>
[[FileTập tin:Henry II, Plantagenet Empire.png|thumb|left|200px|Sự mở rộng của Đế chế Angevin vào 1172. Vùng màu vàng là lãnh thổ chính thức. Vùng chấm vàng là chư hầu.]]
Tất nhiên là sự hiện diện quá lớn của Quốc vương Henry II đã đưa tới những mâu thuẫn với các thế lực ở Pháp. Sau nhiều cuộc chiến tranh liên miên, ông qua đời vào năm 1189. Vị vua kế tiếp của Anh là [[Richard I của Anh|Richard I]], thường được biết tới như là Richard Sư Tử Tâm (Richard the Lionheart) do sự quả cảm trên chiến trận của ông.<ref name="Turner & Heiser 71">{{harvnb|Turner|Heiser|2000|p=71}}</ref> Quốc vương Richard I là người đặc biệt hăng hái và ông đã dành nhiều thời gian để theo đuổi [[Cuộc thập tự chinh thứ ba|cuộc Thập tự chinh thứ ba]], nhưng không tái chiếm được Jerusalem từ tay vua [[Saladin]] xứ Ai Cập. Tới lượt [[John của Anh|vua John]] lên ngôi vào năm 1199. Quốc vương John bất tài nên quân Anh liên tục bại trận và cuối cùng đánh mất gần hết đất đai ở lục địa (bao gồm cả Normandy, vốn được xem là gốc rễ của giới quý tộc Anh). Nước Anh chỉ còn giữ được duy nhất vùng [[Gascony]] trên đất Pháp. Đế chế Angevin xem như chấm dứt ở đây, mặc dù Vương triều Plantagenet vẫn còn cai trị ở Anh Quốc nhiều thế kỷ sau đó. Vào năm 1215, vua John phải ký kết bản hiến chương [[Magna Carta]] với giới quý tộc, qua đó giới hạn lại quyền hạn của các vua Anh và mở đường cho sự thành lập Quốc hội của vương quốc Anh vào năm 1241.<ref>Holt, J.C. Magna Carta (1965)</ref>
 
=== Scandinavia ===
Từ giữa thế kỷ 10 đến giữa thế kỷ 11, các vương quốc Scandinavia lần lượt được thành lập và Kitô hóa, dẫn đến sự chấm dứt các cuộc cướp phá của [[người Viking]] và qua đó thì khu vực Bắc Âu cũng tham gia nhiều hơn vào chính trị châu Âu. Quốc vương Canute Đại Đế của Đan Mạch thống trị cả Anh và Na Uy trong triều đại của mình. Sau khi vua Canute qua đời vào năm 1035, Anh và Na Uy giành lại độc lập, và với thất bại của Quốc vương [[Valdemar II của Đan Mạch|Valdemar II]] vào năm 1227, địa vị thống trị của Đan Mạch trong vùng cũng đi đến chỗ kết thúc.
 
Cùng lúc đó, [[Na Uy]] mở rộng quyền kiểm soát trên [[Đại Tây Dương]], trải dài từ [[Greenland]] đến [[đảo Man]], trong khi [[Thụy Điển]], dưới thời [[Birger Jarl]], bắt đầu hùng cứ ở [[biển Baltic]]. Những cuộc nội chiến cũng diễn ra ở Na Uy từ năm 1130 đến 1240. Quốc vương [[Haakon IV của Na Uy|Haakon Haakonsson]] là vị vua đã giành chiến thắng cuối cùng và đưa vương quốc Na Uy đạt tới thời hoàng kim trong suốt [[triều đại]] của ông. Mặc dù vậy thì tầm ảnh hưởng của Na Uy sau đó đã bị suy giảm, đánh dấu bằng [[Hiệp ước Perth]] vào năm 1266 (phải buông bỏ [[Hebrides]] và đảo Man về tay Scotland).<ref>http://www.isle-of-man.com/manxnotebook/manxsoc/msvol04/v3p210.htm</ref> Bên cạnh đó, [[hiệp ước Lödöse]] vào năm 1249 cũng đã kết thúc những sự đối đầu giữa Na Uy và Thụy Điển.
 
=== Pháp ===
{{main|Nước Pháp thời Trung Cổ}}
[[File:Conquetes Philippe Auguste.gif|thumb|200px|Sự mở rộng của Pháp dưới thời Philip II (1180-1223)
Dòng 43:
Nhìn chung thì quá trình thống nhất nước Pháp đã diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn giữa Trung Cổ, tuy nhiên phải chờ đến sau [[Chiến tranh Trăm Năm]] thì nó mới thật sự hoàn tất.
 
=== Đế chế La Mã thần thánh ===
{{main|Nước Đức thời Trung Cổ}}
[[FileTập tin:Canossa-three.jpg|thumb|left|250px|Henry IV và giáo hoàng Gregory VII tại sự kiện Canossa (1077). Cuối cùng thì sự khai trừ giáo tịch của Henry IV đã được chấm dứt.]]
Phần đông của Đế chế Frank trở thành [[Đế chế La Mã thần thánh]], tiền thân của nước [[Đức]] và [[Áo]] sau này. Hình thức tồn tại của Đế chế La Mã thần thánh là bao gồm nhiều công quốc lớn nhỏ khác nhau, được cai trị bởi các các công tước, bá tước, v.v... Những nhà quý tộc này có quyền tự chủ và họ thường phát triển quân đội để hùng cứ tại lãnh địa của mình. Hoàng đế chung của Đế chế được được bầu lên bởi một số nhà quý tộc và tăng lữ. Trong thời chiến, hoàng đế có quyền kêu gọi các lãnh chúa tham gia, nhưng họ có thể lựa chọn theo phe của hoàng đế hoặc không. Như vậy, quyền lực cai trị thực sự vừa nằm trong tay của hoàng đế, vừa nằm trong tay của các lãnh chúa. Khác biệt lớn nhất với các quốc gia đương thời là ở chỗ, vì những lý do vẫn còn đang gây tranh cãi, Đế chế La Mã thần thánh không bao giờ phát triển được thành một quốc gia dân tộc thống nhất như Pháp hay Anh.
 
Dòng 56:
Dưới sự bảo trợ của [[Friedrich II của đế quốc La Mã Thần thánh|Frederick II]] (ở ngôi 1220–1250), các hiệp sĩ Teuton đã tiến hành chinh phục đất Phổ và dựng nên nhiều thành phố dọc bờ đông biển Baltic. Một điều trớ trêu là mặc dù được xem là một vị vua lỗi lạc và chính là người giành lại đất thánh Jerusalem trong [[cuộc Thập tự chinh thứ sáu]], Frederick II lại nhiều lần bị khai trừ giáo tịch vì tranh chấp với giáo hoàng. Từ sau năm 1300 thì Đế chế bắt đầu mất đi nhiều lãnh thổ từ khắp mọi hướng.
 
[[ImageTập tin:Aftnn King Stephen, who we reckon was responsible for Christianity in eastern Europe.jpg|thumb|170px|left|Tượng Thánh Stephen I ở [[Budapest]]]]
 
=== Hungary ===
{{main|Vương quốc Hungary thời Trung Cổ}}
Sau một thời gian dài quấy phá châu Âu thì cuối cùng sự định cư của [[người Magyar]] (người Hungary) cũng được giáo hoàng chấp nhận cùng với sự cải đạo, và vào năm 1001, [[Stephen I của Hungary|Stephen I]] đã được gia miện thành vua Hungary. Stephen I được các nhà sử học đương thời nhớ đến như là một vị vua rất mộ đạo và giỏi [[tiếng Latinh]] (sau này ông được phong thánh). Nhà vua rất nghiêm khắc với thần dân của mình nhưng đối xử tốt với những người ngoại quốc. Ông loại bỏ hết những tàn tích của lối sống bán khai, buộc dân chúng phải theo đạo Thiên chúa, và tổ chức nhà nước theo mô hình đất phong kiểu Đức.<ref name=Britannica>{{cite encyclopedia|title=Stephen I|url=http://britannica.com/EBchecked/topic/565415/Stephen-I|encyclopedia=[[Encyclopædia Britannica]]|publisher=Encyclopædia Britannica, Inc.|year=2008|accessdate=2008-07-29}}</ref>
Dòng 66:
Về mặt quân sự, vào năm 1051, quân của Đế chế La Mã thần thánh định chinh phục Hungary nhưng bị đánh bại ở núi Vértes và Pozsony vào năm 1052. Tới thời [[Andrew II của Hungary|Andrew II]] (1205-1235), nhà vua đã lãnh đạo [[cuộc Thập tự chinh thứ năm]], nhưng phải trở về vào năm 1218. Trong thế kỷ 13, Hungary chính là nước phải đương đầu với những cuộc xâm lược của người Mông Cổ. [[Béla IV của Hungary|Béla IV]] (1235–79) phải tháo chạy sau thất bại tại [[trận Mohi]], nhưng khi người Mông Cổ lui quân thì ông đã có thời gian chỉnh đốn lực lượng và tái tổ chức đất nước. Quân Mông Cổ trở lại vào năm 1286, tuy nhiên lần này thì các lâu đài bằng đá và những chiến thuật mới của người Hungary đã chặn được họ. [[Ladislaus IV của Hungary|Ladislaus IV]] đã đánh bại quân Mông Cổ xâm lược tại một địa điểm gần Pest.
 
=== Bán đảo Iberia ===
[[ImageTập tin:Spanish reconquista.gif|thumb|300px|Reconquista, 790-1300.]]
"''[[Reconquista]]''" là một thuật ngữ trong [[tiếng Tây Ban Nha]] và [[tiếng Bồ Đào Nha|Bồ Đào Nha]], chỉ việc các vương quốc Thiên chúa giáo tái chinh phục [[bán đảo Iberia]] khỏi tay người Hồi giáo.<ref name="Reconquista">http://www.britannica.com/EBchecked/topic/493710/Reconquista</ref> Trong giai đoạn đầu Trung Cổ, từ sau năm 711 thì phần lớn nơi đây đã rơi vào tay [[người Moor]]. Công cuộc Reconquista đã được tiến hành ngay từ thời đó, với việc các chiến binh Thiên chúa giáo từ nhiều nơi ở châu Âu tới đây để chiến đấu. Sau này thì Reconquista tiếp nhận thêm những ý tưởng của Thập tự chinh.<ref name="Reconquista"/>
 
Dòng 75:
 
Vào năm 1212, tại [[trận Las Navas de Tolosa]], liên quân bốn nước Thiên chúa giáo là Castile, Aragon, Navarre và Bồ Đào Nha đã đánh tan quân đội của Hồi giáo, từ đó mở ra bước ngoặt cho quá trình Reconquista.<ref>Nafziger, 87.</ref><ref>Lynn Hunt, R. Po-chia Hsia, Thomas R. Martin, Barbara H. Rosenwein, and Bonnie Smith, ''The Making of the West: Peoples and Cultures: A Concise History: Volume I: To 1740'', Second Edition (New York: Bedford/St. Martin's 2007), 391.</ref> Các vương quốc Thiên chúa giáo sau đó liên tiếp giành thắng lợi. Tới giữa thế kỷ 13 thì chỉ còn [[Granada]] là vương quốc Hồi giáo duy nhất vẫn trụ lại ở Tây Ban Nha, và phải trở thành chư hầu của Castile.<ref>http://www.britannica.com/EBchecked/topic/557573/Spain/70377/Granada?anchor=ref587406</ref> Mãi tới năm 1492 thì vương quốc này mới bị chinh phục nốt.
[[FileTập tin:San Marco horses.jpg|thumb|left|120px|''Horses of Saint Mark'' là một bản phục chế của ''Triumphal Quadriga'' (Venice lấy được từ Byzantine vào năm 1204).]]
 
=== Italy ===
Miền Bắc của Italy bước vào thời kỳ giữa Trung Cổ nằm dưới sự cai quản của Giáo hoàng và các tiểu quốc chư hầu của Đế chế La Mã thần thánh. Ở miền Nam, trong thế kỷ 10 chứng kiến sự hồi phục quyền lực của [[Đế chế Byzantine]]. Phần còn lại là của người Hồi giáo ([[Sicilia|đảo Sicily]]), những vị vua Lombard, và các thành phố địa phương.
 
Dòng 84:
Thế kỷ 11 cũng đánh dấu sự chấm dứt của một thời đại đen tối. Giao thương buôn bán dần phát triển, đặc biệt là trên biển, nơi mà bốn thành phố [[Amalfi]], [[Pisa]], [[Genoa]] và [[Venice]] vươn lên thành những thế lực mới. Giáo hoàng cũng phục hồi quyền lực và bắt đầu một cuộc tranh đấu phức tạp và kéo dài với các Hoàng đế của Đế chế La Mã thần thánh.
 
Trong thế kỷ 12, các thành phố chư hầu của Đế chế La Mã thần thánh đã thành công trong cuộc đấu tranh giành quyền tự trị.<ref>http://www.arcaini.com/ITALY/ItalyHistory/ItalianCityStates.htm</ref> Họ cùng nhau thành lập nên [[liên minh Lombard]] mỗi khi muốn ngăn chặn tầm ảnh hưởng của Đế chế.<ref name= "Lombard">http://www.britannica.com/EBchecked/topic/346706/Lombard-League</ref> Các hoàng đế Frederick Barbarossa và Frederick II đều từng bị liên minh Lombard cầm chân.<ref name= "Lombard"/>
 
Các thành phố tiêu biểu ở Bắc Italy gồm Venice, [[Milan]], [[Florence]], [[Lucca]], Pisa, [[Siena]], [[Genoa]], và [[Cremona]]. Về mặt kinh tế, các thành phố này là những trung tâm thương nghiệp của châu Âu do nằm ở vị trí thuận lợi. Về mặt quân sự, các thành phố này đều tự xây dựng quân đội hùng mạnh từ rất sớm, và trong [[cuộc Thập tự chinh thứ tư]] (1204), Venice đã chinh phục một phần tư Đế chế Byzantine (bao gồm cả Constantinople). Đây cũng được xem là những vùng có trình độ học vấn và nghệ thuật cao. Thể chế các thành phố độc lập tồn tại ở miền Bắc Italy mãi tới thế kỷ 19.
 
=== Đông Âu ===
[[FileTập tin:PriseDeConstantinople1204PalmaLeJeune.JPG|thumb|250px|Hình minh họa cuộc chiếm đóng Constantinople bởi quân Thập tự chinh vào năm 1204.]]
Thời hoàng kim của Đế chế Byzantine kết thúc vào đầu thế kỷ 11 khi nó phải đối mặt với kẻ thù từ mọi hướng. Các tỉnh Byzantine ở Nam Italy bị người Norman dần dần đoạt mất.<ref>Vasiliev, [http://www.intratext.com/IXT/ENG0832/_P17.HTM Relations with Italy and Western Europe].</ref> Mâu thuẫn với Rome lên cao, dẫn đến cuộc [[ly giáo Đông - Tây]] (1054), từ đó ở phía Tây gọi là [[giáo hội Công giáo Rôma]], còn ở phía Đông là giáo hội Chính thống theo [[Chính thống giáo Đông phương]]. Tầm ảnh hưởng của Byzantine ở các thành phố bờ biển tại [[Dalmatia]] cũng bị mất về tay vua [[Krešimir IV của Croatia]] vào năm 1069.<ref>{{harvnb|Šišić|1990}}.</ref> Nhưng chính [[Tiểu Á]] mới là nơi mà Đế chế Byzantine phải hứng chịu những thất bại to lớn nhất. [[Người Thổ Seljug]] vượt biên giới của Byzantine để xâm nhập vào [[Armenia]] trong các năm 1065 và 1067. Để đối phó lại, vào mùa hè năm 1071, hoàng đế [[Romanos IV]] thân chinh chỉ huy một chiến dịch quy mô ở phía đông để đẩy lui người Thổ. Nhưng rồi quân Byzantine đại bại trong [[trận Manzikert]] và bản thân hoàng đế cũng bị bắt sống.<ref name="PM">Markham, [http://www.deremilitari.org/resources/articles/markham.htm The Battle of Manzikert].</ref> Tới năm 1081 thì người Thổ đã mở rộng quyền kiểm soát ra toàn bộ vùng [[Anatolia]], trải dài từ [[Bithynia]] tới Armenia. Thủ đô [[Nicaea]] của họ chỉ cách [[Constantinople]] 55 dặm.<ref>{{cite encyclopedia|title=Byzantine Empire|encyclopedia=Encyclopædia Britannica|year=2002}}; Markham, [http://www.deremilitari.org/resources/articles/markham.htm The Battle of Manzikert].</ref>
 
Dòng 96:
Giai đoạn giữa Trung Cổ còn chứng kiến cả đỉnh cao và sự suy tàn của nhà nước [[Kievan Rus']] của [[người Slav]], sự xuất hiện của [[Ba Lan]], và sự thành lập [[Đế chế Bulgaria thứ hai]] ở vùng [[Balkan]] (1158). Sau đó, cuộc xâm lăng của người Mông Cổ trong thế kỷ 13 đã gây ra những ảnh hưởng lớn tới Đông Âu, khi nhiều quốc gia bị xâm lược, cướp phá, hoặc phải trở thành chư hầu.
 
=== Cuộc xâm lược của người Mông Cổ ===
{{Main|Mông Cổ xâm lược châu Âu}}
{{Xem thêm|Bạt Đô}}
Năm 1235, đại hãn [[Oa Khoát Đài]] của [[đế quốc Mông Cổ]] trao quyền cho [[Bạt Đô]] để Tây chinh xâm chiếm châu Âu. Vó ngựa quân Mông Cổ tiến như vũ bão vào Kievan Rus'. Sau khi tiêu diệt đại công quốc Vladimir-Suzdal của Yuri II, Bạt Đô cho quân cướp phá 14 thành phố lớn nhỏ của Rus', trong đó có các thành phố lớn như [[Vladimir]], [[Torzhok]], và [[Kozelsk]]. Mùa hè năm 1238, quân đội của Bạt Đô tàn phá [[Krym]] và sau đó chinh phục [[Kiev]] vào năm 1240.<ref>https://tspace.library.utoronto.ca/citd/RussianHeritage/4.PEAS/4.L/12.III.5.html</ref> Lãnh thổ to lớn của Kievan Rus' bị xé vụn ra trong những cuộc tấn công của Mông Cổ.
[[ImageTập tin:Battle of Mohi 1241.PNG|thumb|250px|left|Hình minh họa trận Mohi. Trận chiến diễn ra ở bờ sông Sajó.]]
Trong các năm 1241-1242, người Mông Cổ tấn công vào Trung Âu theo ba cánh. Một cánh xâm chiếm Ba Lan còn hai cánh còn lại lần lượt vượt [[dãy núi Karpat|dãy Carpathian]] và ngược dòng [[sông Danube]] để cuối cùng hợp quân tấn công Hungary, đối thủ đáng gờm nhất của họ trong lần Tây chinh này. Hơn 200 năm trước, người Hungary cũng đã từng sử dụng nhiều chiến thuật đánh trận tương tự như Mông Cổ, nhưng tới thế kỷ 13 này thì họ đã gần như quên lãng chúng. Để chuẩn bị cho cuộc chiến, vua Béla IV của Hungary kêu gọi được một nhóm viện binh từ Tây Âu và trưng dụng một cánh quân người Cuman, dân tộc rất thông hiểu chiến tranh du mục. Nhưng rồi do mâu thuẫn nội bộ mà tới lúc giao chiến thì chỉ còn một mình quân đội Hungary, và cuối cùng họ đã thất bại trong [[trận Mohi]] (11 tháng 4 năm 1241). Người Mông Cổ tràn vào tàn sát dân chúng và phá hủy một nửa vương quốc Hungary.
 
Dòng 107:
Cuộc xâm lược của Mông Cổ đã làm thay đổi đáng kể cục diện ở Đông Âu. Nó đã góp phần đưa tới sự phân rã của nước Kievan Rus' rộng lớn (những nguyên nhân khác bao gồm các cuộc tranh chấp nội bộ và sự suy yếu của Đế chế Byzantine, đối tác thương mại quan trọng của Kievan Rus'), qua đó người Đông Slav bị chia làm ba quốc gia khác nhau.<ref>[[Boris Rybakov]], ''Киевская Русь и русские княжества XII-XIII вв.'' (''Kievan Rus' and Russian princedoms in XII-XIII centuries''), Moscow: Nauka, 1993. ISBN 5-02-009795-0.</ref> Các thành phố lớn trước đó như Kiev không bao giờ khôi phục được ánh hào quang của mình, trong khi [[Moskva]] lại nhân cơ hội này để trỗi dậy.<ref> [[Richard Pipes]]. (1995). ''Russia Under the Old Regime.'' New York: Penguin Books. pp. 61-62 </ref>
 
== Khí hậu và nông nghiệp ==
[[Thời kỳ ấm Trung cổ|Thời kỳ ấm Trung Cổ]] là một giai đoạn có khí hậu ấm và dễ chịu ở châu Âu kéo dài trong khoảng 950–1250.<ref name="global lia mwp">{{cite journal|doi=10.1126/science.1177303|title=Global Signatures and Dynamical Origins of the Little Ice Age and Medieval Climate Anomaly|year=2009|last1=Mann|first1=M. E.|last2=Zhang|first2=Z.|last3=Rutherford|first3=S.|last4=Bradley|first4=R. S.|last5=Hughes|first5=M. K.|last6=Shindell|first6=D.|last7=Ammann|first7=C.|last8=Faluvegi|first8=G.|last9=Ni|first9=F.|journal=Science|volume=326|pages=1256|pmid=19965474|issue=5957}}</ref> Nhờ đó mà nông dân trồng được lúa mì ở tận các vùng phương bắc xa xôi như Scandinavia và trồng [[nho]] ở phía bắc nước Anh. Những vụ mùa tốt đẹp đã ngăn được nạn đói kém, qua đó tạo điều kiện để dân số châu Âu tăng nhanh. Dân số tăng nhanh đã đóng góp nhiều vào sự thành lập các thành thị mới và sự phát triển các hoạt động kinh tế trong thời kỳ này. Sản lượng lương thực gia tăng còn là nhờ vào những cải tiến trong phương thức trồng trọt, bao gồm việc dùng cày nặng hơn, dùng ngựa thay cho bò, và một hệ thống luân canh ba mảnh đất. Mảnh đất thứ nhất thường trồng [[lúa mì]], mảnh đất thứ hai trồng các loại cây có khả năng chuyển hóa trực tiếp [[nitơ]] như [[yến mạch]] hay [[đậu]], còn mảnh đất thứ ba thì được để không.<ref>"[http://www.uh.edu/engines/epi1318.htm No. 1318: Three-Field Rotation]"</ref> Hệ thống luân canh này giúp có nhiều đất đai được trồng trọt hơn, và quan trọng hơn, nó làm giảm nguy cơ xảy ra nạn đói kém khi có một vụ mùa thất bát.
 
== Sự trỗi dậy của các hiệp sĩ ==
[[ImageTập tin:Knight on his horse.gif|thumb|right|Hình ảnh một hiệp sĩ trên lưng ngựa.]]
Ở châu Âu, tầng lớp hiệp sĩ được định hình bởi hai yếu tố: chế độ phong kiến và việc chiến đấu trên lưng ngựa.<ref>Edge (1988), trang 6.</ref> Cả hai điều này đều nổi lên từ thời [[Charlemagne]], mặc dù việc sử dụng kỵ binh đã tồn tại từ trước đó. Khi người Frank mở rộng lãnh thổ, đã có rất nhiều chiến binh cưỡi ngựa theo cùng hoàng đế trong các cuộc chinh phạt. Sau thời Charlemagne, tầng lớp chiến binh này tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Các lãnh chúa cần họ để cai trị và chống lại các cuộc tấn công của người Viking, người Hồi giáo và người Magyar.
 
Dòng 118:
Thời đại Thập tự chinh cũng góp phần vào sự nở rộ của tinh thần hiệp sĩ. Trong thế kỷ 12, có những hội hiệp sĩ được ra đời, ví dụ như [[Hiệp sĩ dòng Đền|hội Hiệp sĩ Templar]]. Trong thế kỷ 13 ở Đức, hiệp sĩ trở thành một loại danh hiệu thừa kế, mặc dù thuộc hàng thấp nhất trong giới quý tộc. Hiệp sĩ được xem là một nét đặc trưng của châu Âu thời Trung Cổ và còn là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học đương thời cũng như sau này.
 
== Tôn giáo ==
=== Giáo hội ===
Vào năm 1054, [[giáo hoàng Leo IX]] và thượng phụ Michael I rút phép thông công lẫn nhau sau một cuộc tranh chấp kéo dài trong Giáo hội. Cuộc [[ly giáo Đông - Tây]] này đã chính thức tách rời Giáo hội ra làm hai nửa: [[Công giáo]] ở Tây Âu và [[Chính thống giáo Đông phương]] ở phía đông.
 
=== Thập tự chinh ===
{{main|Thập tự chinh}}
[[FileTập tin:Near East 1135.svg|left|thumb|200px|Bản đồ các công quốc do người Thiên chúa giáo thành lập sau cuộc Thập tự chinh thứ nhất.]]
Một trong những sự kiện quan trọng nhất của giai đoạn này là các cuộc chiến tranh tôn giáo được biết tới như là các cuộc Thập tự chinh, trong đó những đội quân Thiên chúa giáo đã chiến đấu để giành lại đất thánh [[Jerusalem]] khỏi tay người Hồi giáo. Thập tự chinh đã ảnh hưởng đến toàn bộ mọi tầng lớp xã hội trong giai đoạn giữa Trung Cổ, từ các vị vua chúa thân chinh tham chiến cho đến những nông dân thấp kém nhất mà chủ của họ vắng mặt ở phía đông. Nó cũng đã đem lại cho Tây Âu sự tiếp xúc với nền văn hóa và khoa học kỹ thuật của người Ả Rập, cũng như là tạo điều kiện thúc đẩy những sự buôn bán trao đổi giữa phương Đông và phương Tây. Có nhiều hội hiệp sĩ tôn giáo được ra đời trong thời kỳ này, bao gồm [[hiệp sĩ Teuton|hội Hiệp sĩ Teuton]], [[Hiệp sĩ dòng Đền|hội Hiệp sĩ Templar]], và [[Hiệp sĩ Cứu tế|hội Hiệp sĩ cứu tế]]. Đỉnh cao của Thập tự chinh là thế kỷ 12 khi nhiều vương quốc Thiên chúa giáo của những người đi Thập tự chinh được thành lập ở Trung Đông.
 
Dòng 133:
 
Các nỗ lực Thập tự chinh sau đó đều không khôi phục được vị thế như trước, ngoại trừ một lần vào năm 1229, Hoàng đế [[Friedrich II của đế quốc La Mã Thần thánh|Frederick II]] đã dùng biện pháp ngoại giao để kiểm soát được Jerusalem trong 10 năm.<ref>Lamb, Harold. The Crusades: The Flame of Islam, Double Day and Company, Inc. New York. 1931 pg. 310–311.</ref> Trong cuộc Thập tự chinh thứ tư thì thay vì đi tới Trung Đông, quân đội Thiên chúa giáo đã trở mặt đánh chiếm Constantinople, từ đó làm Đế chế Byzantine suy yếu không sao hồi phục được nữa. Với sự thất thủ của Antioch (1268), Tripoli (1289) và Acre (1291) thì sự thống trị của người Thiên chúa giáo ở các vùng đất Trung Đông cũng đi đến chỗ kết thúc.<ref>[http://penelope.uchicago.edu/Thayer/E/Gazetteer/Places/Asia/Armenia/_Texts/KURARM/30*.html Hetoum II (1289‑1297)]</ref> Trong thế kỷ 13 và sau đó, ngoài Hồi giáo ra thì khái niệm Thập tự chinh còn được gán cho những cuộc chiến chống lại những người ngoại giáo khác, hoặc chính những người Thiên chúa giáo.
[[FileTập tin:Saint Thomas Aquinas.jpg|right|thumb|170px|Thánh Thomas Aquinas]]
 
=== Triết học kinh viện ===
{{main|Triết học kinh viện}}
 
Triết học kinh viện là hình thức nổi trội của thần học và triết học [[Tây Âu|Tây Âu]] trong [[thời Trung cổ]], đặc biệt là trong các thế kỷ 12, 13, và 14. Nó vừa là phương pháp vừa là một hệ thống hướng tới việc hòa trộn thần học Ki-tô giáo với triết học Hy Lạp của [[Aristotle]].
 
Nền triết học và thần học mới này được bắt nguồn từ [[Anselm xứ Canterbury]] (1033–1109) với những sự tái khám phá các công trình nghiên cứu của Aristotle. Một số học giả chịu ảnh hưởng sâu sắc của ông là [[Albertus Magnus]], [[Bonaventure]] và [[Abélard]]. Các học giả này tin vào [[chủ nghĩa kinh nghiệm]] và ủng hộ các giáo lý của Giáo hội bằng cách viện dẫn các nghiên cứu cổ xưa và một tập hợp các lý luận. Họ cũng chống lại tính thần bí của Thiên chúa giáo, những niềm tin vào thuyết nhị nguyên và quan điểm về sự xấu xa vốn có của thế giới. Học giả nổi tiếng nhất trong trường phái này là [[Thomas Aquinas]] (về sau được gọi là "Tiến sĩ của Giáo hội"). Ông dứt hẳn ra khỏi những quan điểm trước đó và hướng về tư tưởng Aristotle. Aquinas phát triển một hệ thống triết học cho rằng đầu óc con người lúc mới sinh là một ''tabula rasa'' (tờ giấy trắng) và được ban tặng khả năng suy nghĩ bởi một sức mạnh thần thánh.<ref>http://saints.sqpn.com/saint-thomas-aquinas/</ref> Ông cũng xem thần học như là một môn khoa học và tìm cách giải thích rằng mọi sự kiện trong tự nhiên đều có liên quan đến Chúa.<ref>http://plato.stanford.edu/entries/aquinas/</ref> Một số học giả đáng chú ý khác là Roscelin, Abélard, và Peter Lombard.
 
=== Thời hoàng kim của hệ thống tu viện ===
Cuối thế kỷ 11 và đầu thế kỷ 12 là đỉnh cao trong thời hoàng kim của hệ thống tu viện Thiên chúa giáo (thế kỷ 8 đến 12).
* Tổ chức Benedictine - các thầy tu áo choàng đen
* Tổ chức Cistercian - các thầy tu áo choàng trắng
[[FileTập tin:cathars expelled.JPG|thumb|left|175px|Người dị giáo Cathars bị đuổi khỏi [[Carcassonne]] vào năm 1209.]]
 
=== Các hội thầy tu hành khất ===
Thế kỷ 13 chứng kiến sự xuất hiện của các hội thầy tu hành khất, tiêu biểu có:
* Franciscans, thành lập năm 1209
Dòng 155:
* Augustinians, thành lập năm 1256
 
=== Các tư tưởng Kitô giáo không chính thống ===
Các tư tưởng Kitô giáo không chính thống đã tồn tại ở châu Âu từ trước thế kỷ 11, nhưng chỉ với số lượng nhỏ hoặc có tính chất địa phương; tuy nhiên từ thế kỷ 11 thì nhiều phong trào như vậy đã xuất hiện với số lượng lớn. Nguồn gốc của chuyện này có thể là từ sự phát triển của thành thị và giao thương buôn bán. Những tư tưởng không chính thống xuất hiện đầu tiên ở các thành thị tại phía Nam nước Pháp và Bắc Italy, và diễn ra ở một tầm cỡ mà Giáo hội chưa từng thấy trước đây. Để đối phó lại chuyện này, Giáo hội tiêu diệt một vài khuynh hướng (như [[Cathars]])<ref>http://en.wikisource.org/wiki/Catholic_Encyclopedia_%281913%29/Inquisition</ref> và chấp nhận cũng như là dung hòa những khuynh hướng còn lại (như [[Phanxicô thành Assisi|Thánh Francis]]).<ref>http://www.catholic-forum.com/saints/stf01010.htm</ref>
 
[[FileTập tin:Haupthandelsroute Hanse.png|thumb|Các tuyến đường thương mại chính của liên minh Hansa.]]
 
== Thương mại ==
Ở Bắc Âu, [[liên minh Hansa]], một liên hiệp các thành phố tự do chuyên buôn bán bằng đường biển, được thành lập vào thế kỷ 12 cùng với sự thành lập thành phố [[Lübeck]]. Nhiều thành phố của Đế chế La Mã thần thánh đã trở thành thành viên của liên minh, bao gồm [[Amsterdam]], [[Cologne]], [[Bremen]], [[Hannover]] và [[Berlin]]. Ngoài ra còn một số thành phố khác như [[Bruges]], [[Gdańsk]], [[Konigsberg]], v.v... Liên minh này cũng có những nhà môi giới và cơ xưởng ở [[Bergen]], [[Na Uy]] và [[Novgorod]].
 
Vào cuối thế kỷ 13, một nhà thám hiểm của Venice là [[Marco Polo]] đã trở thành một trong những người đầu tiên đi dọc [[con đường tơ lụa]] để tới Trung Quốc. Người phương Tây trở nên quan tâm hơn đến vùng [[Viễn Đông]] khi đọc những tác phẩm của Polo. Theo gót ông sau đó là nhiều giáo sĩ Thiên chúa giáo và các nhà thám hiểm khác cũng tiến về phía đông, mở ra những cơ hội mới cho việc buôn bán và trao đổi văn hóa.
 
== Khoa học và công nghệ ==
Việc dạy khoa học và triết học trong [[giai đoạn đầu Trung Cổ]] được dựa trên một số lượng ít ỏi các bản sao và các bài bình luận của Hy Lạp cổ đại còn sót lại sau sự sụp đổ của [[Đế quốc Tây La Mã|Đế chế Tây La Mã]]. Hầu hết chúng chỉ được giảng dạy bằng tiếng Latinh, vì những hiều biết về tiếng Hy Lạp là rất giới hạn.
 
Tình hình này được thay đổi vào thế kỷ 12. Sự phục sinh nền học vấn ở châu Âu được bắt đầu với sự thành lập các trường đại học thời Trung Cổ. Việc tiếp xúc với Đế chế Byzantine và thế giới Hồi giáo trong những cuộc Thập tự chinh và Reconquista đã giúp châu Âu tiếp cận được với các kiến thức khoa học bằng tiếng Ả Rập và Hy Lạp, bao gồm cả những công trình của Aristotle, [[Alhazen]], và [[Averroes]]. Qua việc dịch và truyền bá các tác phẩm này, các trường đại học châu Âu đã dọn đường cho cộng đồng khoa học phát triển.
 
[[FileTập tin:NotreDameDeParis.jpg|thumb|right|160px|Nhà thờ Đức Bà Paris.]]
Tới đầu thế kỷ 13. hầu như tất cả các công trình học thuật của các tác giả cổ đại đã được dịch ra tiếng Latinh với độ chính xác cao, giúp thuận tiện cho việc dạy và học bằng lời ở các đại học và tu viện.<ref>Franklin , J., [http://web.maths.unsw.edu.au/~jim/renaissance.html "The Renaissance myth"], Quadrant 26 (11) (Nov, 1982), 51-60.</ref> Các nghiên cứu về khoa học tự nhiên trong các công trình này được mở rộng ra bởi các học giả như [[Robert Grosseteste]], [[Roger Bacon]], [[Albertus Magnus]] và [[Duns Scotus]]. Tiền thân của phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại có thể được thấy trong sự nhấn mạnh của Grosseteste rằng toán học chính là phương thức để thấu hiểu tự nhiên, và trong cách tiếp cận theo chủ nghĩa kinh nghiệm của Bacon.
 
Thế kỷ 12 và 13 cũng chứng kiến sự ra đời của nhiều phát minh cơ bản và những cải tiến trong cách sản xuất. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiêu biểu bao gồm cối xay gió, việc in ấn, thuốc súng, mắt kính, đồng hồ và những chiếc tàu tốt hơn. Hai thứ cuối cùng đã giữ một vai trò quan trọng trong những cuộc thám hiểm sau này.
 
== Nghệ thuật ==
{{Main|Nghệ thuật thời Trung Cổ|Kiến trúc Gothic|Văn học thời Trung Cổ|Âm nhạc thời Trung Cổ}}
Nghệ thuật thị giác trong giai đoạn giữa Trung Cổ chủ yếu gồm bốn trường phái lớn: nghệ thuật Roman, nghệ thuật Gothic, nghệ thuật Byzantine, và nghệ thuật Thiên chúa giáo. Một số trường phái nhỏ hơn là nghệ thuật Anglo-Saxon và nghệ thuật Do Thái. Về mặt kiến trúc, [[kiến trúc Gothic]] đã thay thế kiến trúc Roman để thống trị trong thời kỳ này, với công trình tiêu biểu là [[nhà thờ Đức Bà Paris]]. Âm nhạc và văn học trong giai đoạn giữa Trung Cổ chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn hóa khác nhau, đáng kể nhất là những tư tưởng của đạo Thiên chúa.
 
== Bảng biên niên sử ==
* 962 &mdash; [[Otto I]] được gia miện thành Hoàng đế La Mã thần thánh.
* 1003 &mdash; [[Giáo hoàng Silvestrô II|Giáo hoàng Sylvester II]] qua đời
* 1018 &mdash; [[Đế chế Bulgaria đầu tiên]] bị Byzantine chinh phục.
* 1027 &mdash; [[Conrad II của Đế chế La Mã thần thánh|Conrad II]] lên kế vị hoàng đế cuối cùng của dòng Otto.
* 1054 &mdash; [[Ly giáo Đông - Tây]]
* 1066 &mdash; [[Trận Hastings]]
* 1066-1067 Bayeux Tapestry
* 1073-1085 &mdash; [[Giáo hoàng Gregory VII]]
* 1071 &mdash; [[Trận Manzikert]]
* 1077 &mdash; [[Sự kiện Canossa]]
* 1086 &mdash; [[Sách Domesday]]
* 1086 &mdash; [[Trận az-Zallaqah]]
* 1088 &mdash; Thành lập [[Đại học Bologna]]
* 1091 &mdash; [[Trận Levounion]]
* 1096-1099 &mdash; [[Thập tự chinh thứ nhất|Cuộc thập tự chinh thứ nhất]]
* 1123 &mdash; [[Hội nghị Lateran đầu tiên]]
* 1139 &mdash; [[Hội nghị Lateran thứ hai]]
* 1145-1149 &mdash; [[Cuộc Thập tự chinh thứ hai]]
* 1147 &mdash; [[Cuộc Thập tự chinh Wendish]]
* ca. 1150 &mdash; Thành lập [[Đại học Paris]]
* 1155-1190 &mdash; [[Frederick I Barbarossa]]
* 1158 &mdash; Thành lập [[liên minh Hansa]]
* 1167 &mdash; Thành lập [[Đại học Oxford]]
* 1185 &mdash; [[Đế chế Bulgaria thứ hai]] ra đời.
* 1189-1192 &mdash; [[Thập tự chinh thứ ba|Cuộc Thập tự chinh thứ ba]]
* 1200–1204 &mdash; [[Cuộc Thập tự chinh thứ tư]]
* 1205 &mdash; [[Trận Adrianople (1205)|Trận Adrianople]]
* 1209 &mdash; Thành lập [[Đại học Cambridge]]
* 1209-1229 &mdash; [[Cuộc Thập tự chinh Albigensian]]
* 1212 &mdash; [[Trận Las Navas de Tolosa]]
* 1215 &mdash; [[Magna Carta]]
* 1216 &mdash; [[Hội Dominican]] được chấp nhận
* 1215 &mdash; [[Hội nghị Lateran thứ tư]]
* 1217–1221 &mdash; [[Cuộc Thập tự chinh thứ năm]]
* 1218 &mdash; Thành lập [[Đại học Salamanca]]
* 1220-1250 &mdash; [[Friedrich II của đế quốc La Mã Thần thánh|Frederick II]]
* 1222 &mdash; Thành lập [[Đại học Padua]]
* 1223 &mdash; Thành lập [[Hội Franciscan]]
* 1228–1229 &mdash; [[Cuộc Thập tự chinh thứ sáu]]
* 1230 &mdash; [[Cuộc Thập tự chinh Prussia]]
* 1230 &mdash; [[Trận Klokotnitsa]]
* 1237-1240 &mdash; [[Mông Cổ xâm lược Rus]]
* 1241-1242 &mdash; [[Mông Cổ xâm lược châu Âu]]
* 1241 &mdash; [[Trận Legnica]]
* 1242 &mdash; [[Trận chiến trên băng]]
* 1248–1254 &mdash; [[Cuộc Thập tự chinh thứ bảy]]
* 1257 &mdash; Thành lập [[Đại học Sorbonne]]
* 1261 &mdash; [[Đế chế Byzantine]] tái chiếm [[Constantinople]].
* 1274 &mdash; [[Thomas Aquinas]] qua đời; ''[[Summa Theologiae]]'' được xuất bản
* 1280 &mdash; [[Albertus Magnus]] qua đời
* 1291 &mdash; [[Akko|Acre]], tiền đồn cuối cùng của châu Âu ở Trung Đông, thất thủ.
* 1299 &mdash; [[Osman I]] thành lập [[Đế chế Ottoman]].
* 1321 &mdash; [[Dante Alighieri]] qua đời
 
== Chú thích ==
{{Reflist|colwidth=30em}}
 
Dòng 240:
[[Thể loại:Lịch sử châu Âu]]
[[Thể loại:Trung kỳ Trung Cổ]]
 
{{Liên kết chọn lọc|no}}
 
Hàng 253 ⟶ 254:
[[es:Plenitud de la Edad Media]]
[[eu:Erdi Aro Klasikoa]]
[[fr:Moyen Âge classiquecentral]]
[[gl:Alta Idade Media]]
[[it:Pieno Medioevo]]