Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chùa Giác Viên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
bổ sung thông tin
n nhỏ
Dòng 25:
 
==Lịch sử==
Năm [[Mậu Ngọ]] ([[1798]]), [[chùa Giác Lâm]] được Thiền sư [[Tổ Tông-Viên Quang]] (đời thứ 36, trụ trì: [[1774]] - [[1827]]) cho trùng tu lớn, gần như là làm mới lại tất cả<ref>Học giả [[Vương Hồng Sển]] (''Sài Gòn năm xưa'', tr. 212) ghi việc trùng tu trên xảy ra dưới thời Hòa thượng [[Tiên Giác-Hải Tịnh]] làm trụ trì chùa Giác Lâm. Thông tin này có thể không đúng, vì mãi đến năm [[1827]] (tức năm Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang viên tịch), Hòa thượng Tiên Giác-Hải Tịnh mới đảm nhận vai trò ấy.</ref>. Gỗ xây dựng chùa được chở từ rừng về bằng đường sông, theo rạch Hố Đất (tức rạch Tân Hòa) vào rạch Ông Bường, rồi đỗ ở bến mà sau này là vị trí của chùa Giác Viên (tọa lạc tại số 161/85/20 đường Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).

Sau khi cưa xẻ, những cây ván được đưa về chùa Giác Lâm (cách đó khoảng 2 [[km]]) bằng xe [[trâu]]. Công trình đại trùng tu đó kéo dài khoảng 6 năm mới xong ([[1798]]–[[1804]]). Trong khoảng thời gian đó, một ông hương đăng (lo việc nhang đèn trong chùa) già được cử đến trông coi việc cưa xẻ và giữ gìn cây gỗ. Đến đây ông dựng một cốc nhỏ (bên trong có thờ Bồ Tát [[Quán Thế Âm]]) vừa làm nơi tu, vừa để lo cho công việc. Đến khi chùa Giác Lâm được trùng tu xong, Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang cho sửa am thành chùa, đặt tên là Viện Quan Âm.

Năm [[Canh Tuất]] ([[1850]]), Hòa thượng trụ trì chùa Giác Lâm lúc bấy giờ là [[Tiên Giác-Hải Tịnh]] (đời thứ 37, trụ trì: [[1827]] - [[1869]]) cho trùng tu viện thành chùa, đổi tên lại là '''Giác Viên''', cử đệ tử là thầy Minh Vi-Mật Hạnh (đời thứ 38) làm trụ trì, đồng thời cho đặt cơ sở học tập khoa ứng phú<ref>Ứng phú (ở đây ứng là lời mời, phú là đi đến) có nghĩa là lời mời chư tăng đến nhà để làm lễ như cầu an, tang lễ, cầu siêu,… (tục gọi là “đi đám”) ở nhà tín đồ (giải thích này là của HT. [[Thích Thanh Từ]], tr. 493).</ref>tại đó <ref>Nhiều tác giả, trong số ấy có HT. Thích Thanh Từ (tr. 483), Nguyễn Hiền Đức (tr. 284-285), Thiền Hòa tử Huệ Chí ("Buổi đầu của Phật giáo Gia Định", in trong sách ''Hội thảo khoa học 300 năm Phật giáo Gia Định - Sài Gòn - TP. HCM'', Nxb TP. HCM, 2002, tr. 64), Thích nữ Như Lộc, "300 năm Phật giáo Gia Định - Sài Gòn - TP. HCM" (sách vừa kể, tr. 94) đều kể tương tự như trên. Tuy nhiên, vì trong chùa Giác Viên còn lưu giữ bức hoành phi đề "Tân Mão niên tại" nên có ý kiến cho rằng chùa đã có từ năm [[1771]] hoặc [[1831]]. Xem: [http://phatgiaovnn.com/news/index.php?nv=News&at=save&sid=1261]. </ref>.
 
Năm [[1869]], Hòa thượng Tiên Giác-Hải Tịnh thấy mình đã già yếu, nên đưa Hòa thượng Minh Vi-Mật Hạnh về làm trụ trì chùa Giác Lâm, đồng thời cử một đệ tử khác là Hòa thượng Minh Khiêm-Hoằng Ân (đời thứ 38) sang trụ trì chùa Giác Viên. Sau đó, lần lượt các đời trụ trì chùa là: Như Nhu-Chân Không, Như Phòng-Hoằng Nghĩa, Hồng Từ-Huệ Nhơn, Thích Thiện Phú,...