Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ô Châu cận lục”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n {{inline}}
Bổ sung thông tin
Dòng 1:
'''Ô Châu cận lục''' ([[chữ Hán]]: 烏|州|近|錄, có nghĩa "ghi chép về Ô Châu gần đây") do [[Dương Văn An]] ([[1514]] – [[1591]]) làm từ năm [[1553]], sửa chữa và ấn hành vào năm [[1555]], dưới triều vua [[Mạc Tuyên Tông]]<ref> Tiểu dẫn của Cao Ngọc Thắng in trong ''Tổng tập dư địa chí Việt Nam'' (tập 3), Nxb Thanh Niên, 2012, tr. 11.</ref>. Đây là một trong những tài liệu địa phương chí sớm nhất của [[Việt Nam]], ghi chép về nhiều phương diện như núi sông, thành quách, phong thổ, nhân vật...của dải đất miền Trung từ [[Quảng Bình]] trở vào đến [[Quảng Nam]] ở [[thế kỷ 16]]<ref> Theo "Lời giới thiệu" bản dịch sách ''Ô Châu cận lục'' (cho lần xuất bản năm [[1997]]) in trong ''Tổng tập dư địa chí Việt Nam'' (tập 3), tr. 13.</ref>.
'''''Ô Châu cận lục''''' (chữ Hán: {{linktext|烏|州|近|錄}}) là một bộ sách ghi chép công trình nghiên cứu về địa lý địa danh con người ở vùng đất mà ngày nay là [[Quảng Bình]], [[Quảng Trị]], [[Thừa Thiên-Huế]] vào [[thế kỷ 16]] của [[Dương Văn An]], quan [[thượng thư]] [[nhà Mạc]].
 
==Thông tin mở đầu==
==Nội dung==
'''Châu Ô''' là tên cũ của vùng đất từ đèo [[Lao Bảo]] đến lưu vực [[sông Thạch Hãn]]<ref>Catherine Nope, J. F. Hubert "Arts du VietNam", trang 90, và "Nước non ngàn dặm... theo bước Huyền Trân" Lê Nguyễn Lưu (trích trong ''Phú Xuân-Huế từ đô thị cổ đến hiện đại'').</ref> ở phía nam tỉnh [[Quảng Trị]]. Châu Ô cùng với [[Châu Lý]] là vùng đất cũ của [[Vương quốc Chăm Pa]].
''[[Ô Châu]]'' là tên một đơn vị hành chính của [[Đại Việt]] có từ thời [[nhà Trần]]; ''cận lục'' có nghĩa là ghi chép gần đây. Châu Ô chính là khu vực các huyện phía nam tỉnh Quảng Trị và toàn tỉnh [[Thừa Thiên-Huế]] ngày nay, đến thời Dương Văn An làm quan nhà Mạc, Châu Ô là phần phía nam của xứ [[Thuận Hóa]], tuy nhiên mặc dù bộ sách mang tên Ô Châu nhưng nội dung trong sách bao quát toàn thể vùng Bình Trị Thiên ngày nay.
 
Năm [[1306]], vua Chăm Pa là [[Chế Mân]] sai sứ dâng chiếu cầu hôn công chúa [[Huyền Trân]] đến vua [[Trần Anh Tông]] của [[Đại Việt]]. Vua Trần bằng lòng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và nhận hai châu Ô và Lý mà Chế Mân đã dâng làm vật sính lễ. Nhà Trần đổi châu Ô làm ''Thuận Châu'', và [[châu Lý]] làm ''Hoá Châu''.
Nguyên bản [[chữ Hán]] của cuốn sách nay không còn, chỉ còn bản chép tay được khắc in từ thời [[nhà Nguyễn]], lời giới thiệu thời đó cho biết bộ sách có 6 quyển. Tuy nhiên hiện nay chỉ sưu tầm được 4 quyển (3, 4, 6, 6). Nội dung cuốn sách như sau:
*Bài tựa
*Quyển 1: về núi sông và các cửa biển;
*Quyển 2: về tô thuế và sản vật địa phương;
*Quyển 3: về phân chia đơn vị hành chính, huyện, xã và phong tục (sách gọi là Bản đồ);
*Quyển 4: về thành thị, tháp, cầu, cửa ải;
*Quyển 5: về đền, chùa, danh lam;
*Quyển 6: về các nhân vật địa phương, phi tần, thân vương, quan lại, khoa mục, công thần, sư tăng, nội quan, phụ nữ tiết hạnh...;
*Tổng luận
 
Đến thời Dương Văn An làm quan [[nhà Mạc]], Châu Ô là phần phía nam của xứ [[Thuận Hóa]]. Tuy nhiên, mặc dù bộ sách mang tên Ô Châu nhưng nội dung trong sách bao quát toàn thể xứ Thuận Hóa, tức là khu vực các huyện phía nam tỉnh [[Quảng Trị]] và toàn tỉnh [[Thừa Thiên-Huế]] ngày nay.
==Ấn bản hiện nay==
Cuốn sách được nhà sử học [[Nguyễn Khắc Thuần]] dịch và hiệu định, ấn bản mới nhất được xuất bản năm 2009 bởi [[Nhà xuất bản Giáo Dục]].
 
Theo lời ''Tựa'' của ông viết đề ở đầu sách ''Ô Châu cận lục'', thì năm [[Quý Sửu]] ([[1553]]), nhân khi về quê chịu tang, ông (lúc bấy giờ đang giữ chức Lại khoa Đô cấp sự trung, tước Sùng Nham bá) được đọc hai tập tài liệu của hai người đồng hương biên chép về hai phủ Tân Bình và Triệu Phong. Bởi ham thích, nên sau đó ông đã khảo cứu thêm, bổ sung và sửa chữa để làm ra sách ấy <ref> Theo lời Tựa sách ''Ô Châu cận lục'' in trong ''Tổng tập dư địa chí Việt Nam'' (tập 3), tr. 19.</ref>.
==Tham khảo==
 
*Ô Châu cận lục, NXB Giáo Dục 2009
==Văn bản và bản dịch==
Tác phẩm Ô Châu cận lục ra đời cách nay đã hơn 450 năm. Về mặt văn bản, hiện còn thấy 6 bản chép tay:
:-Bản ký hiệu A. 263 của thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm.
:-Bản ký hiệu A. 96 của thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm.
:-Bản ký hiệu Hv. 192 của thư viện Viện Sử học.
:-Bản ký hiệu Hv. 206 của thư viện Viện Sử học.
:- Bản ký hiệu Hv. 394/1-2 của thư viện Viện Sử học.
:-Bản ký hiệu Hv. 183 của thư viện Viện Sử học <ref> Theo nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp (sách ở mục tham khảo, tr. 652), thì ở thư viện Khoa học xã hội có một bản sách chép tay, cũng đề là ''Ô Châu cận lục'', ký hiệu AB. 185, nhưng là sách giả mạo. Thực ra, đây là bài Hoán tỉnh châu dân từ bằng [[chữ Nôm]] của Đốc trấn [[Cao Bằng]] là Đinh Nho Hoàn (đỗ [[Hoàng giáp]] năm [[1700]]).</ref>.
 
Trong cả 6 văn bản nêu trên, không có văn bản nào trọn vẹn. Qua đối chiếu, nhóm dịch sách (bản dịch đã được nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1997) nhận thấy bản ký hiệu A. 263 là bản còn tương đối đầy đủ hơn cả. Văn bản có 121 tờ, khổ 21 x 31, 5 [[cm]], nguyên là đóng gộp bởi hai tập mang ký hiệu A. 263/ 1 (từ tờ 2 đến tờ 81) và A. 263/ 2 (từ tờ 82 đến tờ 121). Đây là bản sao chép tương đối cẩn thận, chữ viết chân phương; và quan trọng nhất là phần được gọi là ''Ô Châu cận lục khảo chính biên'' của Ký lục Nguyễn Hàm Chuẩn, đề ngày [[18 tháng 9]] năm [[Canh Tuất]] (tức ngày [[20 tháng 10]] năm [[1910]]), dưới triều vua [[Duy Tân]]. Ông Chuẩn cho biết văn bản này là kết quả khảo chính từ hai văn bản ''Ô Châu cận lục'' khác nhau. Một bản gọi là Đại bản được tàng trữ tại [[trường Viễn Đông Bác cổ]], và một bản gọi là Tiểu bản do linh mục Cadière gửi tặng.
Năm [[1961]], sách ''Ô Châu cận lục'' đã được Bùi Lương phiên dịch, nhà xuất bản Á Châu ấn hành.
 
Năm [[1997]], bản dịch của bản A. 263 vừa kể đã được nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành (năm [[2012]], bản dịch này lại được đưa vào tập 3 của bộ ''Tổng tập dư địa chí Việt Nam'' gồm 4 tập, do nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành).
 
CuốnNgoài ra, sách ''Ô Châu cận lục'' cũng đã được nhà sử học [[Nguyễn Khắc Thuần]] dịch và hiệu địnhđính, ấn bản mới nhấtđã được nhà xuất bản nămGiáo 2009 bởi [[NhàDục xuất bản Giáonăm Dục[[2009]].
 
==Nội dung sách (sơ lược)==
Tác phẩm ''Ô Châu cận lục'' gồm 6 quyển, ghi chép về các chủ đề khác nhau:
*'''Quyển 1''': gồm hai mục lớn là:
:-Núi lớn (phụ chép: Động)
:-Sông lớn (phụ chép: Ao đầm, Đầu nguồn, Cửa sông).
*'''Quyển 2''': gồm 3 mục lớn là:
:-Các thứ thuế: ở hai phủ Triệu Phong và Tân Bình.
:-Sản vật: trong đó có 5 tiểu mục: Tổng luận về sản vật, Tổng luận sản vật nguồn, Mây, Sản vật biển, Cá.
:-Tổng luận về cây cối, trong đó có 3 tiểu mục: Quả, Loài chim, Thú.
*'''Quyển 3''': gồm 3 mục lớn là:
:-Bản đồ: liệt kê tên các xã trong các huyện: Lệ Thủy, Khang Lộc, Minh Linh, Châu Bố Chính, Kim Trà, Tư Vinh, Vũ Xương, Hải Lăng, Đan Điền, Điện Bàn.
:-Địa lý: nói sơ lược về địa lý của hai phủ là Tân Bình và Thuận Hóa.
:-Tổng luận về phong tục của phủ Triệu Phong (có kể sơ từng huyện trong phủ) và phủ Tân Bình. Phần cuối quyển sách có Lời bình về phủ Triệu Phong.
*'''Quyển 4''': chỉ có một mục lớn là Thành thị, gồm các tiểu mục: Thành Hóa, Thành Ninh Viễn, Thuận Thành, Chợ Thế Lại, Chợ Đại Phúc, Chợ Thuận, Cầu Đan Điền, Cửa Hải Vân, Tháp Dương Lệ, Tháp Trung Đan, Trạm Linh Giang, Trạm Bình Giang, Trạm Nhật Lệ, Bến Dã Độ.
*'''Quyển 5''': gồm 2 mục lớn là:
:-Đền chùa-Danh lam, gồm các tiểu mục: Chùa Sùng Hóa, Chùa Kính Thiên, Chùa Đại Phúc, Chùa Thiên Mụ, Chùa Hóa, Chùa Linh Sơn, Chùa Kim Quang (hai ngôi chùa sau cùng này nguyên văn chỉ có nêu tên).
:-Đền thờ thần, gồm các tiểu mục: Đền Tứ vị thánh nương, Đền Tùng Giang, Đền Minh Uy, Đền Thai Dương, Đền Linh Đa, Đền Thần Y Na, Đền Thần Thủy Tộc, Đền Thần Thủy Lan.
*'''Quyển 6''': gồm 4 mục lớn là:
:-Quan chế: Lược kể về quan chế ở Ô Châu.
:-Nhân vật môn, gồm 8 tiểu mục, kể sơ lược về các nhân vật:
::-Thổ hào, gồm: Phan Mãnh, Hồ Long, Phạm Thế Căng [có bản chép là Kiềm], Nguyễn Khả Hoan, Thanh Quận công [không rõ họ tên]), Phạm thượng tướng [không rõ tên]), Nguyễn Ca, Hà Công).
::-Các bà phi của vua, gồm: Bà phi họ Đặng, Hòa Quân phi [không rõ họ tên]), Lê phi).
::-Hậu cung: chỉ có Hậu cung Câu Nhi.
::-Thân vương: chỉ có Triệu vương.
::-Rể vua, gồm: Hồ Hưng, Phò mã Trần Xá [không rõ họ tên].
::-Tướng võ-Tướng văn, gồm: Đặng Tất, Đặng Dung.
::-Cựu học <ref> Sửa là Bạn vua (chú của nguyên bản chữ Hán).</ref>: chỉ có Lê Văn).
::-Công thần : chỉ có Nguyễn Văn Tường.
:-Khoa mụ môn, gồm 2 tiểu mục là:
::-Khoa Tiến sĩ: chỉ có Bùi Dục Tài.
::-Khoa Hoàng từ: chỉ có Hoàng từ An quán [không rõ họ tên] và Nguyễn Đình Giao..
:-Sĩ quan môn, gồm 6 tiểu mục, kể sơ lược về các nhân vật:
::-Văn giai: có Trần Nguyên Diễn, Hiến phó họ Hồ [không rõ tên], Tri phủ họ Trần [không rõ tên], Phạm Văn Các, Cao Bách Tuế [có bản chép là Cao Bá Tuế], Tri phủ họ Nguyễn [không rõ tên], Nguyễn Quang, Nguyễn Đình Bảo, Thái Nhân Nghĩa, Tri phủ họ Phạm [không rõ tên], PhạmTri Chỉ, Lê Tiềm, Phan Lại, Hồ [không rõ tên, có bản chép là Hồ Cống], Lê Hoàng Hoa [có bản chép là Lê Trọng Hoa], Tri châu họ Phan [không rõ tên], Lương Văn Quán, Lương Công Thuật, Tri phủ họ Phan [không rõ tên], Trần Đình Hi, Trần Vi [có bản chép là Trần Tường], Tri huyện họ Lê [không rõ tên], Tri phủ họ Nguyễn [không rõ tên], Trần Thực, Nguyễn Đình tán, Hoàng Công Đán, Phạm Cư, Trần Văn Hòa [có bản chép là Trần Văn Tri].
::-Hàng quan võ, có: Nguyễn Quận, Tổng binh họ Hồ [không rõ tên], Tổng binh Kim Bồng [không rõ họ tên], Tổng binh Dương Hóa [không rõ họ tên], Nguyễn Đình, Chỉ huy họ Phạm [không rõ tên], Nguyễn Hùng, Phan Cơ, Phạm Tử Linh, Ông phủ họ Lê [không rõ tên], Nguyễn Như Cương, Đào Bí [có bản chép là Đào Mãi], Khống lãnh họ Hoàng [không rõ tên], Hoàng Bá Hiệu, Dương Triệt, Hồ Văn Quảng, Mai Trung, Nguyễn Lễ, Hoàng Đình Hiển.
::-Những người trung nghĩa, có: Hoàng Bôi, Hồ Biến, Phạm Khắc Hoan, Phạm Triệt, Đồng Hiển.
::-Tiết phụ, có: Người đàn bà Thị Lễ [không rõ họ tên], Đỗ Thị Tổng, Trần Thị Hồng, Bà họ Phạm [không rõ tên].
::-Nội quan, có: Tư lễ Bồ Điền [không rõ họ tên], Thượng bảo Kim Sa [không rõ họ tên, có bản chép là Kim Khôi].
::-Văn nhân, có: Thượng xá họ Hoàng [không rõ tên], Nguyễn Thức Kính, Vũ Tri Giám, Trần Nghi, Nguyễn Văn Ngạch, Phan Vinh, Giáp Cống, Phạm Phi Diệu, Nguyễn Ngọc Quân, Nguyễn Đoan Thi, Nguyễn Túc, Trần Hoàng Củ, Hoàng Nãi, Tống Văn Hùng [có bản chép là Chu Văn Hùng], Nguyễn Bá Tế, Trường An bá [không rõ họ tên], Trung Trinh bá [không rõ họ tên], Lương Tài bá [không rõ họ tên], Hoàng Công Châu, Dương Liễn, Vũ Nậu, Hồ Công Khanh, Hồ Tôn Sùng, Hoàng Công Sùng.
 
Ngoài ra, ở đầu sách có bài '''Tựa''' và cuối sách có phần '''Tổng luận''', đều do tác giả soạn.
 
==Giá trị==
Sách ''Ô Châu cận lục'' đã được [[Phan Huy Chú]] nói tới trong bộ ''[[Lịch triều hiến chương loại chí]]'' (phần "Văn tịch chí"), và [[Lê Quý Đôn]] nói tới trong quyển ''[[Phủ biên tạp lục]]'' (tuy nhiên tác giả lại chép nhầm là Dương Văn Trung) <ref> Xem Trần Văn Giáp giải thích trong ''Tìm hiểu kho sách Hán Nôm'', tr. 650.</ref>. Đây là một nguồn tài liệu hữu ích cho nghiên cứu về các mặt địa lý tự nhiên, xã hội và lịch sử vùng đất Ô Châu ở [[thế kỷ 16]]<rè> Trích "Lời giới thiệu" bản dịch sách ''Ô Châu cận lục'' (cho lần xuất bản năm [[1997]]) in trong ''Tổng tập dư địa chí Việt Nam'' (tập 3), tr. 14.</ref>.
 
==ThamSách tham khảo==
*[[Trần Văn Giáp]], ''Tìm hiểu kho sách Hán Nôm'', Nxb Khoa học xã hội, 2003.
*Bản dịch ''Ô Châu cận lục'' in trong ''Tổng tập dư địa chí Việt Nam'' (tập 3), Nxb. Thanh Niên, 2012.
*Bản dịch ''Ô Châu cận lục'' do [[Nguyễn Khắc Thuần]] dịch và hiệu đính. Nxb Giáo Dục, 2009.
== Chú thích ==
{{reflist}}
 
[[Thể loại:Sách lịch sử Việt Nam|O]]