Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bùi Quang Dũng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Gobigs (thảo luận | đóng góp)
Trang mới: Thiên sách thượng tướng Trinh quốc công Bùi Quang Dũng sinh giờ Thìn ngày 10 tháng giêng năm Nhâm Ngọ (tức năm 922) trong một gia đình nông dân nghèo ...
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 15:09, ngày 21 tháng 9 năm 2007

Thiên sách thượng tướng Trinh quốc công Bùi Quang Dũng sinh giờ Thìn ngày 10 tháng giêng năm Nhâm Ngọ (tức năm 922) trong một gia đình nông dân nghèo ở đất Phong Châu, Bạch Hạc (tỉnh Vĩnh Phú hiện nay). Từ trần tại nhà riêng vào giờ Dần, ngày 13 tháng 6 năm Mậu Ngọ (1018) năm Thuận Thiên thứ 9 nhà Lý, hưởng thọ 97 tuổi. Lúc còn nhỏ, ông có tư chất thông minh khác người và rất hiếu thảo với cha mẹ, lễ phép với bề trên, thuận hoà với bè bạn nên được mọi người qúy mến. Ông học rộng, hiểu nhiều, lớn lên trí dũng toàn tài, tinh thông Binh, Nông, Văn, Võ. Năm 944, sau khi Ngô Quyền mất, đất nước ta lâm vào cảnh loạn 12 sứ quân, các thế lực phong kiến nổi dậy, mỗi người hùng cứ một vùng. Các sứ quân Ngô Xương Xí, Đỗ Cảnh Thạc, Kiều Công Hãn biết tiếng ông đã cử người đến cầu hiền, thuyết phục ông và mời ông ra hợp tác với họ, nhưng ông đều một mực từ chối vì ông cho rằng họ không phải là bậc minh chủ. Năm Đinh Mão (967), biết Đinh Bộ Lĩnh là người cương trực, mưu lược và chí lớn, ông đã tìm đến và ra mắt Đinh Bộ Lĩnh, lúc đó ông đã 45 tuổi. Ông đã đem tài năng của mình, cùng với Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lưu Cơ, Trịnh Tú .. dốc lòng phò tá nhà Đinh, thống nhất đất nước, lập nên triều đại nhà Đinh. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt đóng đô tại Hoa Lư (Ninh Bình ngày nay) Năm 971 ông được vua phong Trấn đông Tiết độ sứ, chỉ huy 3 đạo quân thuộc vùng Đông Đạo(lúc đó nhà Đinh có tất cả 10 đạo quân)về xứ Kỳ Bố, Hải Khẩu (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay)dẹp loạn