Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Messerschmitt Bf 109”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Ebaychatter0 (thảo luận | đóng góp)
typo
Dòng 21:
Chiếc '''[[Messerschmitt]] Bf 109''' là một kiểu [[máy bay tiêm kích]] của [[Đức]] trong [[Thế Chiến II]] được thiết kế bởi [[Willy Messerschmitt]] vào đầu những năm [[Thập niên 1930|1930]]. Nó là một trong những máy bay tiêm kích hiện đại thực sự đầu tiên vào thời đó, có những tính năng như cấu trúc [[thân đơn]] toàn kim loại, nóc buồng lái hoàn toàn kín và [[càng hạ cánh]] xếp lại được. Chiếc Bf 109 được sản xuất với số lượng nhiều hơn cả so với mọi kiểu máy bay tiêm kích khác trong lịch sử, với số lượng được sản xuất trong thời chiến (từ [[tháng 9]] năm [[Hàng không năm 1939|1939]] đến [[tháng 5]] năm [[Hàng không năm 1945|1945]]) là 30.573 chiếc. Loại máy bay tiêm kích chiếm 47% số lượng máy bay do Đức sản xuất, và chiếc Bf 109 chiếm đến 57% số máy bay tiêm kích được sản xuất.<ref name="The Fighting Me 109"> Feist 1993, p. 45.</ref> Ngoài ra, 2.193 chiếc Bf 109 phiên bản A-E đã được chế tạo trước chiến tranh từ năm [[Hàng không năm 1936|1936]] đến [[tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1939|1939]], và có hơn 1.000 chiếc được chế tạo sau chiến tranh theo [[giấy phép nhượng quyền]] dưới các tên gọi [[Avia S-199|Avia S-99/S-199]] và [[Hispano Aviacion Ha 1112|Ha 1112 Buchon]].
 
Chiếc Bf 109 là xương sống của lực lượng tiêm kích ''[[Không quân Đức]]'' trong Thế Chiến II, cho dù chúng bắt đầu được thay thế một phần bởi kiểu [[Focke-Wulf Fw 190]] từ năm [[Hàng không năm 1941|1941]]. Chiếc Bf 109 đã ghi được số chiến công không chiến nhiều hơn cả trong Thế Chiến II hơn mọi kiểu máy bay tiêm kích nào khác. Trong những thời đđiểmđiểm khác nhau, nó được sử dụng như là máy bay tiêm kích [[chiếm ưu thế trên không]], [[máy bay tiêm kích hộ tống|hộ tống ném bom]], [[máy bay tiêm kích đánh chặn|tiêm kích đánh chặn]], [[máy bay cường kích|tấn công mặt đất]] và [[máy bay trinh sát]]. Cho dù Bf 109 có những điểm yếu, bao gồm tầm bay kém và đặc biệt là khó điều khiển hạ cánh do vệt bánh hẹp của kiểu càng đáp gấp ra phía ngoài, nó vẫn tỏ ra cạnh tranh cùng những máy bay tiêm kích [[Đồng Minh]] cho đến khi chiến tranh kết thúc.
 
Chiếc Bf 109 được lái bởi ba phi công [[Ách (phi công)|"Ách"]] có thành tích dẫn đầu trong Thế Chiến II: [[Erich Hartmann]], phi công chiến đấu có thành tích cao nhất mọi thời đại với 352 chiến công chính thức, [[Gerhard Barkhorn]] với 301 chiến công, và [[Günther Rall]] với 275 chiến công. Tất cả họ đều bay cùng ''[[Jagdgeschwader 52]]'' (Phi đoàn Tiêm kích 52), một đơn vị chỉ bay toàn kiểu Bf 109 và đã ghi được hơn 10.000 chiến công, chủ yếu là trên [[Chiến tranh Xô-Đức|Mặt trận phía Đông]]. Hartmann đã từ chối bay chiến đấu với bất kỳ kiểu máy bay nào khác trong suốt cuộc chiến. [[Hans-Joachim Marseille]], phi công "Ách" Đức có thành tích cao nhất tại [[Mặt trận Bắc Phi]], cũng ghi được toàn bộ 158 chiến công chính thức của mình trên kiểu Bf 109 khi đối đầu cùng những phi công [[Đồng Minh]] Tây Âu. Chiếc Bf 109 cũng được sử dụng với kết quả tốt bởi phi công các nước khác, bao gồm phi công "Ách" [[Phần Lan]] [[Ilmari Juutilainen]] với 94 chiến công, thành tích cao nhất của một phi công "Ách" không phải là người Đức trong lịch sử.