Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận hồ Masuren lần thứ hai”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 10:
| combatant2 = {{flag|Đế quốc Đức|size=25px}}
| commander1 = {{flagicon|Đế quốc Nga|size=25px}} [[Faddyei Vasiliyevich Sivers|F. V. Sivers]]<ref name="stucker757758"/> <br /> {{flagicon|Đế quốc Nga|size=25px}} [[Pavel Adamovich Plehve|P. A. Plahve]] <ref name="sondhaus90law"> Lawrence Sondhaus, ''World War One: The Global Revolution'', trang 90</ref>
| commander2 = {{flagicon|Đế quốc Đức|size=25px}} '''[[Paul von Hindenburg]]'''<ref name="stucker757758"/> <br /> {{flagicon|Đế quốc Đức|size=25px}} '''[[Erich Ludendorff]]'''<ref name="gjmeyer22324">G. J. Meyer, ''A world undone: the story of the Great War, 1914 to 1918'', các trang 223-224.</ref> <br /> {{flagicon|Đế quốc Đức|size=25px}} [[Otto von Below]]<ref name="sondhaus90law"/> <br /> {{flagicon|Đế quốc Đức|size=25px}} [[Hermann von Eichhorn]]<ref name="sondhaus90law"/>
| strength1 = {{flagicon|Đế quốc Nga|size=25px}} [[Tập đoàn quân số 10 (Đế quốc Nga)|Tập đoàn quân số 10 của Nga]] <ref name="sondhaus90law"/> <br /> {{flagicon|Đế quốc Nga|size=25px}} Tập đoàn quân số 12 của Nga<ref name="sondhaus90law"/>
| strength2 = {{flagicon|Đế quốc Đức|size=25px}} [[Tập đoàn quân số 8 (Đế quốc Đức)|Tập đoàn quân số 8 của Đức]] <ref name="sondhaus90law"/> <br /> {{flagicon|Đế quốc Đức|size=25px}} [[Tập đoàn quân số 10 (Đế quốc Đức)|Tập đoàn quân số 10 của Đức]] <ref name="sondhaus90law"/>
| casualties1 = '''Theo Tucker''': 100.000 quân [[tử trận]] và 110.000 quân [[tù binh|bị bắt]]<ref name="almanactra48"/>, 300 hỏa [[pháo]] bị thu giữ <ref name="sondhaus90law"/> <br /> '''Theo Meyer''': Khoảng 56.000 quân thương vong, 85 hỏa pháo bị mất <ref name="gjmeyer22324"/> <br /> ''''Theo Showalter''': Trong số đó có một [[Tư lệnh]] [[Quân đoàn]] Nga và 55.000 quân bị bắt <ref name="showalter528">William J. Astore, [[Dennis E. Showalter]], ''Hindenburg: Icon of German Militarism'', trang 28</ref>
| casualties2 = '''Nguồn 1''': Thương vong tương đối thấp <ref name="eggengeberg270"/><ref name="stucker757758"/> <br /> '''Nguồn 2''': 60.000 quân thương vong <ref name="sondhaus90law"/>
| campaignbox =
}}
{{Mặt trận Nga (Chiến tranh thế giới thứ nhất)}}
'''Trận hồ Masuren lần thứ hai''', đôi khi còn gọi là '''Trận đánh [[Mùa đông]] tại Masuren''', là một trận đánh lớn trên [[Mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Đông]] của cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]],<ref>J. M. de Beaufort, ''Behind the German veil: a record of a journalistic war pilgrimage'', trang 218</ref><ref name="eggengeberg270">David Eggenberger, ''An Encyclopedia of Battles: Accounts of Over 1,560 Battles from 1479 B.C. to the Present'', trang 270</ref> diễn ra từ ngày [[7 tháng 2|7]] cho đến ngày [[22 tháng 2]] năm [[1915]], giữa [[Quân đội]] [[Đế quốc Đức]] và [[Đế quốc Nga]]<ref name="sondhaus90law"/>. Chiến dịch tấn công này đã được vị Tổng [[tư lệnh]] của Mặt trận phía Đông (''Oberost'') là [[Nguyên soái|Thống chế]] [[Paul von Hindenburg]] của Đức và Tham mưu trưởng của ông là [[Erich Ludendorff]] phát động về hướng Bắc nhằm vào quân Nga, để loại bỏ hoàn toàn quân Nga ra khỏi vòng chiến.<ref name="tuckerroberts66"> Spencer C. Tucker, Priscilla Mary Roberts, ''World War I: A Student Encyclopedia'', các trang 616-618.</ref><ref name="eggengeberg270"/> Chiến dịch tấn công này đã thất bại trong mục tiêu xóa sổ Quân đội Nga,<ref name="stucker757758"/> nhưng Quân đội Đức giành [[thắng lợi chiến thuật]] lớn.<ref name="atmarshall160"/> Sau chiến bại này, người Nga không bao giờ tấn công đe dọa vùng [[Đông Phổ]] nữa và không thể hồi phục.<ref>Spencer Tucker, ''World War I: A - D.'', Tập 1, trang 375</ref><ref name="mooreheadtr97"/> Quân đội [[Đức]] đã tiến hành chiến dịch này trong điều kiện bão tuyết, song với những mục tiêu thích hợp họ đã giành được lợi thế và gây thiệt hại nặng nề cho người [[Nga]]<ref name="almanactra48"> David R. Woodward, ''World War I Almanac'', các trang 48-49.</ref><ref name="griffiths5455"/> (trong số đó nhiều [[người]] [[tù binh|bị bắt]]<ref name="showalter528"/>), trong khi bản thân họ chỉ chịu tổn thất tương đối nhẹ nhàng. <ref name="eggengeberg270"/><ref name="stucker757758"/>
 
Kế hoạch của người Đức giao nhiệm vụ tiến công quân Nga cho [[Tập đoàn quân]] số 8 và Tập đoàn quân số 10 của Đức. Người chỉ huy Tập đoàn quân số 10 của Nga không tin rằng quân Đức có thể tấn công trong thời tiết khó khăn, do đó quân Nga bị choáng ngợp<ref name="stucker757758"/> khi Tập đoàn quân số 8 của Đức đánh vào sườn trái của Tập đoàn quân số 10 của Nga<ref name="tuckerroberts66"/> và giành thắng lợi.<ref name="griffiths5455">William R. Griffiths, ''The Great War'', các trang 54-55.</ref> Ngày hôm sau, Tập đoàn quân số 10 của Đức công kích đội hữu quân Nga và buộc quân Nga phải tháo lui trong một cuộc giao tranh ác liệt. Vào ngày [[11 tháng 2]] năm 1915, Quân đội Đức tiến đến Stallupönen<ref name="tuckerroberts66"/>, và vào ngày [[14 tháng 2]] năm ấy, họ tiến chiếm [[Lyck]]<ref name="stucker757758"/>. Quân Nga phải bỏ lại cả xe ngựa của mình.<ref name="griffiths5455"/> Cho đến ngày [[21 tháng 2]] năm 1915, các đơn vị dẫn đầu của hai Tập đoàn quân số 8 và số 10 của Đức hội quân tại [[Lipsk]], về hướng Nam rừng Augustów để hợp vây tàn binh Nga.<ref name="stucker757758"/> Tại khu rừng này, [[Quân đoàn]] XXI của Nga phải đầu hàng, nhưng cuộc kháng trả của họ đã tạo điều kiện cho ba Quân đoàn khác chạy thoát.<ref name="tuckerroberts66"/> Tuy thế nhưng đây vẫn được xem là thắng lợi đỉnh cao của Quân đội Đức trong trận hồ MasureMasuren lần hai và họ còn lấy được nhiều khẩu đại bác tại rừng này.<ref name="atmarshall160"/> Vào ngày [[22 tháng 2]] năm 1915, Tập đoàn quân số 12 của Nga công kích đội hữu quân Đức, ngăn chặn bước tiến thêm nữa về phía Đông của người Đức.<ref name="stucker757758"/> Nhìn chung, tuyquân rằng họĐức đã khônggần thểnhư hợp vâytriệu tiêu Tập đoàn quân số 10 của quân Nga,<ref name="almanactra48showalter528"/>, quân Đức đã giành [[chiến thắng]] khá lớn trong trận chiến này<ref>Richard Cooper Hall, ''Consumed by War: European Conflict in the 20th Century'', trang 39</ref> và đánh bật quân Nga đến 70 [[dặm Anh]].<ref name="johnmorrow85">John Howard Morrow, ''The Great War: An Imperial History'', trang 85</ref> Quân đội của Hindenburg vốn đã kiệt quệ<ref name="atmarshall160"/> và họ tiến hành phòng ngự sau chiến thắng quan trọng này. <ref name="johnmorrow85"/><ref name="gjmeyer22324"/>
 
Với chiến thắng của Quân đội Đức cũng như tình hình bế tắc theo sau trận hồ Masure lần thứ hai<ref> R. L. DiNardo, ''Breakthrough: The Gorlice-Tarnów Campaign, 1915'', trang 108</ref> cả [[nước Nga Sa hoàng]] lẫn nước Đức dưới binh quyền của [[Erich von Falkenhayn]] đều được tồn tại lâu hơn.<ref name="atmarshall160"/> Ở phía Nam khi ấy, Chiến dịch tấn công của Quân đội [[Đế quốc Áo-Hung|Áo-Hung]] nhằm vào Quân đội Nga đã không mang lại thành quả gì<ref name="stucker757758"/>.<ref name="johnmorrow85"/> Chiến dịch Masure cũng được xem là cố gắng cuối cùng của quân Đức nhằm gián tiếp hỗ trợ quân [[Áo]]-Hung bằng những đòn tấn công ở phía Bắc.<ref name="tuckerroberts66"/> Tình trạng bế tắc đã không thể làm lu mờ thanh danh của Hindenburg và Ludendorff<ref name="sondhaus90law"/>, chưa kể là [[người Đức]] càng thêm tôn kính Hindenburg khi được tin về chiến thắng của quân đội ông trong khu rừng Augustów.<ref name="atmarshall160"/> Là thất bại thứ ba của quân Nga trước quân Đức trong cuộc chiến,<ref name="mooreheadtr97">Alan Moorehead, ''The Russian revolution'', trang 97</ref> cuộc bại trận này đã tiêu diệt Tập đoàn quân số 10 của Nga với tư cách là một lực lượng chiến đấu hữu hiệu.<ref>[[Trevor Nevitt Dupuy]], ''The military lives of Hindenburg and Ludendorff of Imperial Germany'', trang 70</ref><ref name="almanactra48"/> Ngoài ra, chiến bại này đã khiến cho dư luận Nga đặt nghi vấn với kết thúc tốt đẹp của cuộc [[chiến tranh]]. <ref name="stucker757758"/>