Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thuế thân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Redflowers (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Redflowers (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 3:
==Việt Nam==
Trong [[lịch sử Việt Nam]], thuế thân có từ thời [[nhà Lý]].
 
* Đời Lý có lệ mỗi năm khai số hộ (gọi là đơn số), đàn ông 18 tuổi gọi là hoàng nam, từ 20 tuổi trở lên gọi là đại nam. Thuế đinh được "bổ" theo đinh bộ hay hộ tịch của mỗi làng. Thuế thân thời này được tính căn cứ theo số ruộng của mỗi người, ai không có ruộng thì khỏi phải nộp.<ref>Theo Việt Nam Văn hóa sử cương của [[Đào Duy Anh]], trang 90. Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, xuất bản năm 2006</ref>
 
* [[Nhà Trần]]: Theo [[Đại Việt sử ký toàn thư]] quyển VIII thì ''Theo lệ cũ, các trấn hễ có việc binh thì lệnh cho mỗi huyện có bao nhiêu ruộng thì phải nộp bao nhiêu vàng, bạc, tiền, lụa, không tính thêm theo số nhân đinh sinh ra, cũng không trừ bớt theo số người đã chết. Nếu phục dịch việc binh, thì đều thu bổ theo số ruộng cả. Các lộ có đơn binh, là phải phục dịch việc binh, những người này đời đời làm lính, không được ra làm quan. Người nào có ruộng, bãi dâu, đầm cá thì phải đóng thuế, không có thì thôi''. Tháng 7 năm [[Mậu Ngọ]] (năm 1378) đời vua Phế Đế nhà Trần, [[Hành khiển]] Đỗ Tử Bình bắt chước phép đánh "thuế dung" của [[nhà Đường]] tâu Vua thu mỗi hộ đinh nam 3 quan tiền một năm. [http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt13.html]
 
* [[Nhà Hồ]]: Tương tự như nhà Lý - Trần, lấy ruộng làm căn cứ để thu thuế.
 
* Thời kỳ [[Bắc thuộc]] [[nhà Minh]] thì hộ chế cũng như điền chế tính theo kiểu của Trung Quốc. Mỗi người dân đều có một cái thẻ biên tên tuổi, hương quán để phục vụ cho việc thu thuế.
 
* [[Nhà Lê]]: năm Hồng Đức thứ nhất (1470) định cứ 3 năm sửa hộ tịch một lần (tiểu điền), sáu năm sửa lại một lần (đại điền). Mỗi làng phải khai số chính hộ và khách hộ. Ai biết chữ thì cho vào hạng học nhiều; thứ đến xét hạng chức sắc; sau cùng xét hạng dân đinh và chia làm: tráng hạng (hay lính hạng), quân hạng, dân hạng, lão hạng, cố hạng, cùng hạng. Thuế đinh không tính theo số ruộng mà định nhất luật mỗi người đồng niên phải đóng 8 tiền. Đến đời Huyền Tôn (1664) thì bỏ cách tính này mà dùng lệ khai ở xứ [[Nghệ An]] và [[Thanh Hoá]], và lệ bình ở các trấn. Theo cách này, nhà nước không cần theo định kỳ duyệt lại hộ tịch như trước mà chỉ làm một lần nhất định (hoặc bằng lời khai của xã trưởng mà thôi), thuế đinh mỗi suất là 1 quan 8 tiền. Năm Bảo Thái thứ tư, chúa Trịnh Cương sửa lại ngạch thuế đinh gọi là "dung", định rằng: "''con trai từ 17-19 tuổi là hoàng đinh, từ 20-48 là chính đinh, từ 50-59 là lão hạng, từ 60 tuổi trở lên là lão nhiêu''". Hạng chính đinh phải nộp mỗi người 1 quan 2 tiền và 4 bát gạo, hạng sinh đồ cùng hoàng đinh và lão hạng được miễn thuế. Ngạch thuế điệu (là các thứ thuế phụ đời trước để bổ sung vào các việc tế tự và công tác của nhà nước) nay dồn lại thành một, mỗi suất đinh phải nộp 6 quan tiền.<ref>Theo Việt Nam Văn hóa sử cương của [[Đào Duy Anh]], trang 91. Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, xuất bản năm 2006</ref>
 
* [[Nhà Nguyễn]]: sau khi lên ngôi, vua [[Gia Long]] định lại việc thu thuế:
** Thuế suất: ''Thuế đinh thì lệ định theo vùng: từ Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh Hóa, mỗi suất đồng niên phải chịu: Thuế thân 1 quan 2 tiền. Mân tiền 1 tiền. Cước mễ 2 bát. Ở 5 nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên, mỗi suất đinh đồng niên phải chịu: Thuế thân 1 quan 2 tiền. Mân tiền 1 tiền. Điệu tiền (tạp dịch) 6 tiền. Cước mễ 2 bát. Ở 6 ngoại trấn Bắc Thành, mỗi suất đinh đồng niên phải chịu: Thuế thân 6 tiền. Mân tiền 1 tiền. Điệu tiền 3 tiền. Cước mễ 1 bát''
Hàng 38 ⟶ 44:
 
*Với sắc lệnh 11 ký ngày [[7 tháng 9]] năm [[1945]], [[Chính phủ Việt Nam|Chính phủ lâm thời Việt Nam]] đã bãi bỏ thuế thân ngay sau khi thành lập [[Việt Nam Dân chủ Cộng hoà]]. <ref>Xem [http://laws.dongnai.gov.vn/1945_to_1950/1945/194509/194509070001/lawdocument_view Sắc lệnh 11, ký ngày [[7 tháng 9]] năm [[1945]] ]</ref>
 
==Những nhận định==
* ''"Thuế thân là một thứ thuế vô lý, trái ngược với tinh thần chính thể cộng hoà dân chủ."''<ref>Xem [http://laws.dongnai.gov.vn/1945_to_1950/1945/194509/194509070001/lawdocument_view Sắc lệnh 11, ký ngày [[7 tháng 9]] năm [[1945]] ]</ref>