Khác biệt giữa bản sửa đổi của “North Carolina (lớp thiết giáp hạm)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 77:
=== "I" đến "XVI-D" ===
[[Tập tin:USS North Carolina fires over bow.jpg|nhỏ|phải|''North Carolina'' bắn một loạt từ ba khẩu pháo của tháp pháo số 1|alt=Six large guns in two turrets are aimed directly forward; the far trio are elevated extremely high and have a large amount of smoke emanating from them]]
Thiết kế "I" đến "XVI-D" khác nhau đáng kể về mọi khía cạnh ngoại trừ trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn và tốc độ. Thiết kế "II" có trọng lượng choán nước {{convert|35743|LT|t|abbr=on}}, mọi thiết kế khác đều là 35.000 tấn, và chỉ có năm thiết kế dự định một tốc độ tối đa thấp hơn {{convert|27|kn|mph km/h}}; trong đó, chỉ có một thiết kế thấp hơn {{convert|26,5|kn|mph km/h}}: thiết kế "VII", với tốc độ {{convert|22|kn|mph km/h}}. Thiết kế "VII" quay trở lại một tốc độ chậm hơn để có được sự bảo vệ và hỏa lực mạnh hơn, với mười hai khẩu pháo {{convert|14|in|mm|0|adj=on}} trên các tháp pháo ba nòng; và như vậy thiết kế này chỉ đòi hỏi một công suất động cơ {{convert|50000|shp|MW}}{{#tag:ref|Yêu cầu về công suất thấp hơn tiếp theo là "X-A", "XI-A" và "XI-B", với 112.500 mã lực.<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=254-255}}</ref>|group=N}} và một chiều dài chỉ có {{convert|640|ft|m|abbr=on}}. Đa số các thiết kế khác đề nghị một chiều dài {{convert|710|ft|m|abbr=on}} hoặc {{convert|725|ft|m|abbr=on}}, cho dù có sáu thiết kế có chiều dài thay đổi giữa {{convert|660|ft|m|abbr=on}} và {{convert|690|ft|m|abbr=on}}. Tám thiết kế đầu tiên ("I"–"IV-C") mang chín khẩu pháo {{convert|14|in|mm|0|adj=on}}, nhưng cũng có nhiều phương án kết hợp khác được đề xuất, bao gồm cấu hình tám khẩu 14 inch trên hai tháp pháo bốn nòng, thiết kế "V" thậm chí có hai tháp pháo bốn nòng 406 mm (16 inch), hoặc tám khẩu 356 mm (14 inch) trên bốn tháp pháo nòng đôi trên thiết kế "VIA" và "VIB", và mười, mười một và mười hai khẩu pháo 356 mm (14 inch). [[Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa]] lưu ý với sự bực bội rằng họ được yêu cầu thiết kế một con tàu tương đương với chiếc [[tàu chiến-tuần dương]] [[HMS Hood (51)|HMS ''Hood'']] của Anh Quốc nhưng với một trọng lượng rẽ nước thấp hơn 5.000 tấn. Đây là kết quả của việc một số giới hạn an toàn thông thường bị hạ thấp hay loại bỏ hẳn, cùng với các vấn đề khác.<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=254–255, 259.}}</ref>
 
Phiên bản "XVI" vào ngày [[20 tháng 8]] năm [[1936]] là một con tàu dài {{convert|714|ft|m|abbr=on}} đạt được tốc độ {{convert|27|kn|mph km/h}}, mà Văn phòng Đạn dược đã chỉ ra nhiều vấn đề nghiêm trọng. Các thử nghiệm trên mô hình cho thấy ở tốc độ cao, các cơn sóng phát sinh từ thiết kế của lườn tàu khiến cho nhiều phần thấp của con tàu bị thấm nước bao gồm cả hầm đạn. Vấn đề càng thêm phức tạp khi Văn phòng này khám phá ra những quả đạn pháo bắn trúng thấp hay bên dưới mực nước có thể gây ra vấn đề lớn khi tác chiến ở khoảng cách từ {{convert|10|nmi|mi km|abbr=on}} đến {{convert|15|nmi|mi km|abbr=on}}. Những vấn đề khác bao gồm một mối lo ngại về sự bảo vệ chống lại bom ném từ máy bay có thể không thích đáng, vì theo cách nhìn của Văn phòng, công thức dùng để tính toán hiệu quả của chúng là không thực tiễn, và một vách ngăn phía trước được vuốt thon nhọn bên dưới mực nước là một ý tưởng kém do những vấn đề đạn bắn trúng bên dưới mực nước; do đó một mũi tàu hầu như không bọc giáp có thể dễ dàng bị xuyên thủng. Giải pháp cho những vấn đề này hoàn toàn không khả thi; bổ sung thêm các tấm đắp vỏ giáp chung quanh hầm đạn có thể làm vô hiệu hóa hiệu quả của hệ thống phòng thủ chống ngư lôi, còn mở rộng đai giáp sâu hơn gần mũi và đuôi tàu sẽ khiến nó vượt quá giới hạn 35.000 tấn. Ủy ban Tướng lĩnh không ưa thích thiết kế này, cho đó "không phải ... là một thiết giáp hạm thực sự" do những vấn đề về tốc độ và vỏ giáp.<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=261–263}}</ref>
Dòng 83:
Để khắc phục những vấn đề này, một bộ các thiết kế sau cùng, từ "XVI-B" đến "XVI-D" , được Bộ phận Thiết kế Sơ thảo đưa ra vào [[tháng 10]] năm [[1936]]. Chúng là những cải biến dựa trên thiết kế "XVI" về một con tàu dài {{convert|714|ft|m|abbr=on}}, mang mười hai khẩu pháo {{convert|14|in|mm|0|adj=on}} trên ba tháp pháo bốn nòng, một đai giáp nghiêng 10 độ dày {{convert|11,2|in|mm|1|adj=on}}, và một sàn tàu dày {{convert|5,1|-|5.6|in|mm|1|adj=on}}. Trong bộ thiết kế sau cùng, chiều dài con tàu được xác định ở {{convert|725|ft|m|abbr=on}} để có tốc độ nhanh hơn, nhưng chỉ có thể trang bị mười một khẩu pháo 14 inch cùng một đai giáp dày {{convert|10,1|in|mm|adj=on}}. Thay vào đó, một khẩu pháo có thể đánh đổi lấy đai giáp dày {{convert|13,5|in|mm|1|adj=on}}, và một chiếc khác có thể hy sinh để có tốc độ {{convert|30|kn|mph km/h}} cùng tăng thêm một-phần-mười inch cho đai giáp; thiết kế này trở thành kiểu "XVI-C". Ủy ban Tướng lĩnh rất ưa chuộng thiết kế "XVI-C" này, xem nó có đủ sự bảo vệ để chiến đấu và sống sót trong một [[hàng chiến trận]] hình thành cùng với các thiết giáp hạm cũ hơn, trong khi vẫn có đủ tốc độ để hoạt động khi được tách ra độc lập, ví dụ như hộ tống tàu sân bay hay dẫn đầu đội tàu tuần dương [[chiến tranh cướp tàu buôn|cướp tàu buôn]].<ref name ="Friedman263">{{Harvnb|Friedman|1985|p=263}}</ref>
 
Tuy nhiên, một thành viên của Ủy ban, Đô đốc [[Joseph M. Reeves|Joseph Reeves]], người từng là một trong các nhà phát triển chủ chốt cho chiến lược tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, không thích "XVI-C" vì ông tin rằng nó không đủ nhanh để hoạt động cùng với các tàu sân bay có tốc độ {{convert|33|kn|mph km/h|adj=on}}, và không đủ mạnh mẽ để biện minh cho chi phí. Thay vào đó, ông tán thành một phiên bản phát triển từ thiết kế "XVI" đã bị từ chối trước đó, bổ sung thêm sự bảo vệ dưới nước và các tấm thép vỏ giáp bên trong lườn tàu để làm cho các hầm đạn có thể miễn nhiễm với đạn pháo bắn đến bên trên và bên dưới mực nước từ khoảng cách {{convert|9,5|nmi|mi km|abbr=on}} hay xa hơn. Giới hạn ngoài của vùng miễn nhiễm được tăng từ {{convert|14|nmi|mi km|abbr=on}} lên {{convert|15|nmi|mi km|abbr=on}}. Sau các thay đổi khác, Reeves tiếp xúc với Đô đốc [[William Harrison Standley|William Standley]], Trưởng phòng Tác chiến Hải quân, người đã chấp thuận thiết kế "XVI" dưới dạng được cải biến mới nhất ngoài sự hy vọng của Ủy ban Tướng lĩnh, vốn vẫn giữ quan điểm nên chế tạo theo thiết kế "XVI-C". Bổ sung duy nhất của Standley vào các đặc tính là chuyển từ tháp pháo 14-inch bốn nòng sang tháp pháo {{convert|16|in|mm|0|abbr=on}} ba nòng nếu như có thể viện dẫn đến "Điều khoản Leo thang" trong Hiệp ước Hải quân London thứ hai.<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p= 263, 265.}}</ref><ref>{{Harvnb|McBride|1997|p=416}}</ref><ref>"Treaty for the Limitation of Naval Armament"</ref>
 
{{quotebox|align=right|width=33%|quote=Vấn đề trong quá trình thiết kế con tàu kéo dài khá lâu và rất thất thường này là, mặc dù người ta có thể nhìn thấy ''North Carolina'' [như được chế tạo] trong nhiều thiết kế này, sự thực không phải như vậy. Ủy ban Tướng lĩnh chưa bao giờ hoàn toàn chắc chắn về những gì cần phải bỏ đi để đạt được một kiểu tàu chiến nào đó trong phạm vi tải trọng bị giới hạn bởi Hiệp ước. Vả lại, khi số thành viên của Ủy ban thay đổi, ý tưởng cũng thay đổi theo. Một tàu chiến chủ lực nhanh với chín pháo và tốc độ 55,5 km/h (30 knot) đồng thời cũng có sự bảo vệ tốt, cuối cùng lại bị từ chối để ưa chuộng một con tàu hy sinh cả tốc độ ''lẫn'' sự bảo vệ đánh đổi lấy hỏa lực, một sự kết hợp chưa từng có trong lịch sử phát triển tàu chiến chủ lực của Hoa Kỳ.<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=262–263}}</ref>|source= [[Norman Friedman]]}}