Khác biệt giữa bản sửa đổi của “LTV A-7 Corsair II”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n r2.7.3) (Bot: Thêm cs:LTV A-7 Corsair II; sửa cách trình bày |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 19:
}}
Chiếc '''[[Ling-Temco-Vought]] A-7 Corsair II''' là một kiểu [[máy bay cường kích]] hạng nhẹ [[máy bay tốc độ cận âm|cận âm]] hoạt động trên [[tàu sân bay]] được đưa ra hoạt động trong [[Hải quân Hoa Kỳ]] để thay thế cho chiếc [[A-4 Skyhawk]], thiết kế dựa trên kiểu [[máy bay tiêm kích]] [[máy bay tốc độ siêu
== Thiết kế và phát triển ==
[[Tập tin:A-7D Corsair II USAF.jpg|nhỏ|phải|Chiếc Ling-Temco-Vought A-7D-5-CV Corsair II số hiệu 69-6212 thuộc Phi đội Tiêm kích 355, Phi đoàn Tiêm kích Chiến thuật 354, cất cánh từ [[căn cứ không quân Howard]], [[Panamá|Panama]] trong một đợt bố trí năm 1977 từ [[căn cứ không quân Myrtle Beach]], [[Nam Carolina]]]]
Năm [[Hàng không năm 1962|1962]], [[Hải quân Hoa Kỳ]] bắt đầu các công việc sơ khởi trên chiếc '''VAX''' (Máy bay Tấn công Thử nghiệm), một kiểu thay thế cho chiếc [[A-4 Skyhawk]] với tầm bay xa hơn và tải trọng chiến đấu lớn hơn. Có sự nhấn mạnh đặc biệt đến khả năng mang vũ khí chính xác nhằm giảm thiểu chi phí cho mỗi mục tiêu. Các yêu cầu được gút lại vào năm [[Hàng không năm 1963|1963]] và đến năm [[Hàng không năm 1964|1964]], Hải quân công bố việc mở thầu kiểu máy bay '''VAL''' (Máy bay Tấn công Hạng nhẹ). Tương phản với triết ký của Không quân vốn chỉ sở hữu những chiếc [[máy bay cường kích|máy bay tiêm kích-ném bom]] siêu
So sánh với chiếc máy bay tiêm kích [[F-8 Crusader]], chiếc A-7 có khung thân ngắn và rộng hơn. Cánh được chế tạo lớn hơn, và đặc điểm [[cánh có góc tới thay đổi]] độc đáo của chiếc F-8 bị loại bỏ. Để đạt được tầm bay xa, A-7 được trang bị một động cơ [[turbo quạt ép]] [[Pratt & Whitney TF30]]-P-6 tạo ra lực đẩy 11.345 lbf (50,5 kN), cùng một kiểu động cơ đổi mới được sản xuất cho chiếc [[General Dynamics F-111|F-111]], nhưng không có đốt sau vốn cần cho tốc độ siêu
[[Tập tin:A-7B Corsair II VA-305.jpg|nhỏ|phải|Một chiếc máy bay A-7B Corsair II thuộc Phi Đội Cường kích VA-305 Không lực Trừ bị Hải quân Hoa Kỳ]]
Chiếc máy bay được trang bị radar [[AN/APQ-116]] được tích hợp vào hệ thống dẫn đường kỹ thuật số ILAAS. Radar cũng được nạp vào một máy tính kỹ thuật số kiểm soát vũ khí để có thể ném bom chính xác từ khoảng cách xa, cải thiện đáng kể độ sống còn khi so sánh với các nền tảng khác nhanh hơn như [[F-4 Phantom II]]. Nó là máy bay Hoa Kỳ đầu tiên được trang bị [[hệ thống hiển thị thông tin trước mặt]] hiện đại, đến nay đã là thiết bị tiêu chuẩn, vốn hiển thị các thông tin như góc bổ nhào, tốc độ, độ cao, tiêu điểm ngắm. Hệ thống dẫn đường tích hợp còn cho phép một đổi mới khác, hệ thống hiển thị bản đồ chiếu (PMDS), trình bày chính xác vị trí của máy bay trên hai bản đồ thang độ khác nhau.
Dòng 132:
[[Tập tin:A-7f-71-344.jpg|nhỏ|phải|Chiếc nguyên mẫu YA-7F (trước đây là chiếc A-7D số hiệu 71-0344) cất cánh từ [[Căn cứ Không quân Edwards]], [[California]], [[tháng mười một|tháng 11]] năm [[Hàng không năm 1989|1989]].]]
;YA-7F (A-7D Plus / A-7 Strikefighter)
:Vào năm [[Hàng không năm 1985|1985]], Không quân Hoa Kỳ mở thầu về một kiểu máy bay cường kích tốc độ cao do mối lo ngại rằng chiếc máy bay cường kích [[A-10 Thunderbolt|A-10 Thunderbolt II]] quá chậm để can thiệp kịp thời. Thiết kế yêu cầu dùng một kiểu động cơ mới, có thể kiểu [[Pratt & Whitney F100]] hay [[General Electric F110]]. Ling-Temco-Vought đáp ứng bằng một phiên bản siêu
;A-7G
:Phiên bản đề nghị dành cho [[Thụy Sĩ]], không được chế tạo.
|