Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận Inkerman”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 20:
'''Trận Inkerman''' là trận đánh lớn thứ ba và trận đánh lớn nhất trong cuộc [[Chiến tranh Krym]], diễn ra vào năm [[1854]].<ref name="tucker323"/><ref name="tucker1213">Spencer C. Tucker, ''A Global Chronology of Conflict: From the Ancient World to the Modern Middle East: From the Ancient World to the Modern Middle East'', các trang 1213-1214.</ref> Trận đánh kết thúc với việc [[Quân đội]] [[Anh]] do Tướng [[Fitzroy Somerset, Nam tước Raglan thứ nhất]] chỉ huy và [[Quân đội Pháp]] do Tướng [[François Certain Canrobert]] chỉ huy làm chủ trận địa dù chịu thiệt hại không nhỏ, buộc [[Quân đội]] [[Đế quốc Nga]] dưới quyền Tướng [[Alexander Sergeyevich Menshikov|A. S. Menshikov]] phải rút lui với tổn thất nặng nề hơn hẳn đối phương<ref name="jeremyblack63">Jeremy Black, ''War in the Nineteenth Century: 1800-1914'', trang 63</ref>.<ref name="trandanhanh"/><ref name="eraugh187tra"/><ref name="davidnalson1"/> Gánh nặng chủ yếu trong trận Inkerman thuộc về quân Anh và người Anh xem trận này là một thắng lợi huy hoàng của họ (mà bản thân [[Nữ hoàng]] [[Victoria của Anh|Victoria]] cũng thừa nhận) trong chiến dịch Sevastopol.<ref name="sandler406"/><ref> Norman Gash, ''Aristocracy and People: Britain, 1815-1865'', trang 307</ref><ref>Christopher Hibbert, ''Queen Victoria: A Personal History'', trang 224</ref> Đây cũng được cho là một trong những chiến tích hiển hách của lực lượng [[Bộ binh]] Anh,<ref>Michael Barthorp, ''The British Army on Campaign (2): The Crimea 1854-56'', trang 12</ref> cũng như là thời điểm tuyệt vời nhất của [[người lính]] Anh thời Victoria và thể hiện tài năng, lòng dũng cảm cùng với sự kiên cường của họ. Tuy 5.000 quân Pháp không tham chiến và quân Nga có lợi thế quân số, liên quân Anh - Pháp đã bẻ gãy cuộc đột kích của đối phương trong sương mù và mưa gió. <ref>David Nalson, ''The Victorian Soldier'', trang 11</ref>
 
Sau [[trận Balaclava]] bất phân thắng bại, Menshikov một lần nữa cố gắng đột phá đồn bót của liên quân xung quanh [[Sevastopol]]. Thực quyền chỉ huy trong trận Inkerman thuộc về phó chỉ huy của ông là [[Pavel Petrovich Liprandi|P. P. Liprandi]].<ref name="tucker1213"/>. Trận chiến mở đầu lúc rạng sáng ngày 5 tháng 11 năm 1854, và sương mù khiến chỉ huy hai bên đều không thể kiểm soát tình hình<ref name="tucker323"/>. Do đó, những người lính nắm quyền chủ động và đây trở thành một "Trận đánh của những người lính".<ref>Carl Cavanagh Hodge, ''Encyclopedia of the Age of Imperialism, 1800-1914: A-K'', trang 350</ref><ref name="trandanhanh"/> Theo lệnh của Menshikov, tướng Soimonov có nhiệm vụ phân rẽ Quân đội Anh từ phía Tây, trong khi tướng Paulov tấn công từ phía Bắc và một tướng Nga khác tiến hành nghi binh để quân Pháp không tăng viện cho quân Anh. Ngoài ra, 2 vạn quân dự bị Nga đóng về phía Tây Bắc. Quân Nga tiến công lên dốc và trận chiến kéo dài cả ngày. Với ưu thế vượt lên súng hỏa mai của Nga,<ref name="sandler406"/><ref name="tucker323"/> [[súng trường Minié]] của quân Anh đã xé lẻ các đội hình hàng dọc của quân Nga<ref name="sandler406"/>, gây thương vong cao cho đối phương<ref name="jeremytra82"/>. Điều này chứng tỏ sự lỗi thời của các đội hình thời [[Napoléon]].<ref name="jeremyblack63"/> Tuy nhiên, do thiếu hụt đạn dược, người Anh phải lệ thuộc vào những đợt tấn công bằng lưỡi lê.<ref name="jeremytra82">Jeremy Black, ''A Military History of Britain: From 1775 to the Present'', trang 82</ref> Soimonov đã [[tử trận]] trong một đợt tấn công thắng lợi của [[Trung đoàn]] số 47 của Anh, và tinh thần kỷ luật của quân Anh cũng giup2giúp cho họ làm chủ được lòng can đảm của lính Nga trong giai đoạn đầu này.<ref name="trandanhanh"/><ref>[http://www.xenophon-mil.org/crimea/war/inkerman/inkerman.htm INKERMAN, BATTLE]</ref> Sự thiếu hợp tác của các tướng Nga đã góp phần dẫn đến thắng lợi của quân Anh trong suốt cuộc phòng vệ<ref name="sandler406"/>. Quân tiếp viện Anh đã sớm tiếp cận trận địa, trong khi quân Pháp đến trễ hơn nhiều.<ref name="sandler406"/> Sự tiếp viện của quân Pháp đã khiến cho lợi thế quân số của quân Nga bị suy giảm,<ref name="trandanhanh"/> sau khi quân Nga bị Bộ binh Anh cầm chân trong cuộc giao tranh đẫm máu.<ref> Carl Cavanagh Hodge, ''Encyclopedia of the Age of Imperialism, 1800-1914: A-K'', trang 350</ref> Viện binh của Anh và Pháp đã quyết định đến thất bại của đợt tập kích cuối cùng của quân Nga. Về cuối trận đánh, những khẩu (siêu) [[pháo]] vây hãm của quân Anh đã được Raglan đưa vào chiến trường, góp phần đè bẹp quân [[Pháo binh]] Nga và hỗ trợ cho những người lính Anh trên chiến trận. <ref name="trandanhanh"/><ref name="jeremyblack63"/>
 
Trận Inkerman là nỗ lực lớn cuối cùng của quân Nga nhằm tiêu diệt quân Đồng minh ở Sevastopol.<ref name="sandler406"/> Sau 8 tiếng đồng hồ hỗn chiến, quân Nga đã triệt thoái.<ref>David S. T. Blackmore, ''Warfare on the Mediterranean in the Age of Sail: A History, 1571-1866'', trang 323</ref> Thắng lợi ở Inkerman đã khiến cho Raglan được phong hàm [[Nguyên soái|Thống chế]] Anh.<ref>John Sweetman, ''The Crimean War: 1854-1856'', trang 22</ref> Ngoài ra, trận Inkerman cũng được xem là một trận đánh điển hình của [[Trung đoàn Vệ binh Hoàng gia Anh]]<ref name="trandanhanh"/>. Sau trận chiến này, cả hai phe đã bắt đầu trú đông. [[Chiến thắng]] của liên quân tại Inkerman báo hiệu sự tiếp diễn của [[cuộc vây hãm Sevastopol]], song cũng ngăn ngừa một cuộc tấn công của quân Đồng minh vào Sevastopol trước khi [[mùa đông]] đến. <ref name="tucker323"/>
 
== Chú thích ==