Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đông Ấn Hà Lan”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Dân cư |
n ngừng |
||
Dòng 1:
{{Infobox Former Country
|conventional_long_name = Đông Ấn Hà Lan
Hàng 52 ⟶ 51:
|[[File:1916 Dutch East Indies - Art.jpg|thumb|Hình tượng hoàng gia Hà Lan thể hiện Đông Ấn Hà Lan từ năm 1916.]]
|}
'''Đông Ấn Hà Lan''' ({{lang-nl|Nederlands-Indië}}; {{lang-id|Hindia-Belanda}}) từng là một [[đế quốc Hà Lan|thuộc địa của Hà Lan]] và là
Trong thế kỷ 19, sự chiếm hữu và quyền bá chủ của Hà Lan được mở rộng, đạt được kích thước lãnh thổ lớn nhất mà họ từng có vào đầu thế kỷ 20. Đông Ấn Hà Lan là một trong số các thuộc địa có
[[Nhật Bản xâm lược Indonesia|Cuộc xâm lược]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] của [[Nhật Bản]] đã phá hủy phần lớn
==Bối cảnh==
Từ nhiều thế kỷ trước khi người châu Âu tới, trên quần đảo Indonesia tồn tại nhiều quốc gia khác nhau và trong đó có các quốc gia thương mại ven biển và các quốc gia nông nghiệp nội địa.<ref>Taylor (2003)</ref> Những người đầu tiên đến vùng thuộc Indonesia ngày nay là người Bồ Đào Nha vào cuối thế kỷ thứ 15 và sau đó là người Hà Lan nhằm mục tiêu đưa các gia vị đến châu Âu,<ref name="Ricklefs 1991, p. 27">Ricklefs (1991), tr 27</ref> Chuyến thám hiểm đầu tiên của người Hà Lan đến Đông Ấn diễn ra vào năm 1595 nhằm
Công ty Đông Ấn Hà Lan được ban cho đặc quyền có thể tiến hành chiến tranh, xây dựng pháo đài, và lập các điều ước quốc tế trên khắp [[châu Á]].<ref name="Ricklefs 1991, p. 27"/> Công ty thiết lập thủ phủ tại Batavia (nay là [[Jakarta]]), và thành phố này đã trở thành trung tâm của mạng lưới kinh doanh tại châu Á của Công ty Đông Ấn Hà Lan.<ref name="Vickers 2005, p. 10">Vickers (2005), tr 10</ref> Ban dầu, công ty này độc quyền về [[chi Nhục đậu khấu|nhục đậu khấu]], [[đinh hương (gia vị)|đinh hương]], và [[vỏ quế]], công ty và sau này là chính quyền thực dân đã đem đến các loài cây công nghiệp như [[cà phê]], [[trà]], [[ca cao]], [[thuốc lá (nông phẩm)|thuốc lá]], [[cao su]], [[mía]] và [[thuốc phiện]], và bảo vệ lợi ích thương mại của họ bằng cách chiếm lãnh thổ xung quanh.<ref name="Vickers 2005, p. 10"/>
==Các cuộc chinh phục của người Hà Lan==
Kể từ khi chiếc tàu Hà Lan đầu tiên tiến đến vào cuối thế kỷ thứ 16, cho đến năm 1945, quyền kiểm soát của người Hà Lan đối với quần đảo Indonesia luôn rất mong manh.<ref name="LP_23-25"/> Mặc dù đảo Java do người Hà Lan thống trị, song nhiều khu vực khác vẫn duy trì được độc lập trong phần lớn thời kỳ này, bao gồm [[Aceh]], [[Bali]], [[Lombok]] và [[Borneo]].<ref name="LP_23-25">{{Cite book| last =Witton | first =Patrick | title =Indonesia | publisher =Lonely Planet | year =2003 | location =Melbourne | pages =23–25| isbn=1-74059-154-2 }}</ref> Có rất nhiều cuộc chiến tranh và xáo trộn đã diễn ra khắp quần đảo khi các dân tộc bản địa khác nhau chống lại nỗ lực thiết lập quyền bá chủ của người Hà Lan, quyền kiểm soát của Hà Lan bị suy yếu và họ buộc phải cho quân đội án binh bất động.<ref>{{Cite book|last=Schwarz |first=A. |year=1994 |title=A Nation in Waiting: Indonesia in the 1990s|pages= 3–4 |publisher=Westview Press |isbn=1-86373-635-2}}</ref> Hải tặc Indonesia vẫn còn là một vấn đề đối với người Hà Lan cho đến giữa thế kỷ 19.<ref name="LP_23-25"/> Cho đến tận đầu thế kỷ 20, sự thống trị của Hà Lan mới có thể mở rộng ra những nơi mà ngày nay là lãnh thổ của nước Indonesia.
{|align="left" cellspacing="0" cellpadding="0"
Hàng 70 ⟶ 69:
|}
Năm 1806, khi Hà Lan nằm dưới sự thống trị của [[Pháp]], [[Napoléon Bonaparte]] đã bổ nhiệm em trai là [[Louis Bonaparte]] nắm giữ vương vị của Hà Lan, dẫn đến việc bổ nhiệm [[Marshall Herman Willem Daendels]] làm Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan vào năm 1808.<ref>{{Cite book | last = Kumar | first = Ann | title = Java | publisher = Periplus Editions| year = 1997 | location = Hong Kong | page = 44 | isbn = ISBN 962-593-244-5}}</ref> Năm 1811, quân Anh chiếm một vài cảng của Đông Ấn Hà Lan bao gồm cả các cảng tại đảo Java và [[Thomas Stamford Raffles]] trở thành Phó tổng đốc. Quyền kiểm soát của người Hà Lan được phục hồi vào năm 1816.<ref>Ricklefs (1991), tr 111–114</ref> Theo [[Hiệp ước Anh-Hà Lan (1824)|Hiệp ước Anh-Hà Lan]] vào năm 1824, người Hà Lan có được các khu định cư của Anh tại Indonesia, như [[Bengkulu]] tại [[Sumatra]], đổi lại việc nhượng quyền kiểm soát của họ tại [[bán đảo Mã Lai]] và [[Ấn Độ thuộc Hà Lan]]. Biên giới giữa các vùng đất của Anh và Hà Lan trở thành biên giới hiện nay giữa Malaysia và Indonesia.
Kể từ khi thành lập Công ty Đông Ấn Hà Lan vào thế kỷ 17, việc mở rộng lãnh thổ của người Hà Lan dựa trên cơ sở thương mại. Chiến lược của Toàn quyền [[Graaf van den Bosch]] (1830–1835) đã khẳng định lợi nhuận là nền tảng của chính quyền và chính sách chính thức là chỉ hạn chế sự chú ý tại Java, Sumatra và [[Bangka]].<ref name="Rickelfs131"/> Tuy nhiên, từ khoảng năm 1840, dưới chủ nghĩa bành trướng quốc gia Hà Lan, họ đã tiến hành một loạt các cuộc chiến tranh để mở rộng và củng cố các vùng chiếm hữu của họ tại các đảo
[[File:Het zevende bataljon tot de aanval oprukkend.jpg|thumb|left|Quân Hà Lan tiến quân tại Bali năm 1846.]]
Người Hà Lan đã chinh phục [[người Minangkabau]] trên đảo Sumatra trong [[Chiến tranh Padri]] (1821–38)<ref>Ricklefs (1991),
Mặc dù vẫn nổ ra các cuộc nổi loạn khác của người Indonesia, người Hà Lan đã mở rộng quyền cai trị thuộc địa trực tiếp
==Lịch sử kinh tế==
Hàng 84 ⟶ 83:
[[File:Nederlandsch indie 1893.jpg|thumb|Bản đồ Đông Ấn Hà Lan vào năm 1893]]
Việc khai thác thuộc địa tại một nơi giàu có như Đông Ấn đã góp phần vào tiến trình công nghiệp hóa của Hà Lan, nó cũng đặt nền móng cho ngành công nghiệp của Cộng hòa Indonesia sau này. Người Hà Lan đã đưa đến Đông Ấn các loài cây như cà phê, trà, ca cao, thuốc lá, cao su và một phần rộng lớn của Java đã trở thành các đồn điền do nông dân Java trồng trọt, qua trung gian là [[người Indonesia gốc Hoa|người Hoa]],
Mặc dù số tiền thu vào gia tăng nhờ hệ thống thuế đất, tình hình tài chính của thực dân Hà Lan đã bị ảnh hưởng do phải chi phí lớn cho các cuộc chiến tranh [[Chiến tranh Java|Java]] và [[Chiến tranh Padri|Padri]], và việc người Hà Lan để mất [[Bỉ]] vào năm 1830 đã khiến họ đến bên bờ vực phá sản. Năm 1830, một [[Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan|Toàn quyền]] mới, [[Johannes van den Bosch]], đã được bổ nhiệm để khai thác tài nguyên của Đông Ấn bù đắp lại khó khăn tài chính. Người Hà Lan đã lần đầu tiên có được quyền thống trị về chính trị khắp đảo Java vào năm 1830,<ref>Ricklefs (1991), p 119</ref> và do đó họ đã có thể đưa vào các chính sách nông nghiệp mà trong đó việc trồng trọt là do chính quyền kiểm soát. Được gọi là ''cultuurstelsel'' (hệ thống trồng trọt) trong tiếng Hà Lan và ''tanam paksa'' (cây trồng cưỡng ép) trong tiếng Indonesia, các nông dân được yêu cầu phải giao lại (như một hình thức thuế) một lượng cố định các nông sản đã định sẵn, như mía đường hay cà phê.<ref name="Taylor 2003, p. 240">Taylor (2003), p. 240</ref> Phần lớn Java trở thành đồn điền của Hà Lan và doanh thu của chính quyền thực dân tăng liên tục trong thế kỷ 19, số tiền này được tái đầu tư vào Hà Lan để cứu đất nước này thoát khởi nguy cơ phá sản.<ref name="LP_23-25"/><ref name="Taylor 2003, p. 240"/> Từ năm 1830 đến 1870, người Hà Lan đã kiếm được 1 tỉ guilder từ thuộc địa Đông Ấn của họ, và trung bình 25 phần trăm ngân sách của chính phủ Hà Lan mỗi năm đến từ số lợi nhuận này.<ref>[http://www.thejakartaglobe.com/opinion/indonesias-infrastructure-problems-a-legacy-from-dutch-colonialism/437111 The Jakarta Globe]</ref> Tuy nhiên, hệ thống trồng trọt đã gây nên nhiều khó khăn kinh tế cho các nông dân Java, họ đã phải trải qua nạn đói và các dịch bệnh trong thập niên 1840.<ref name="LP_23-25"/>
Các ý kiến chỉ trích tại Hà Lan đã khiến cho phần lớn các mức quy định thái quá của hệ thống canh tác đã bị loại bỏ trong các cải cách ruộng đất của "Thời kỳ Tự do". Từ năm 1870, những người sản xuất đã không còn bị bắt phải cung cấp thu hoạch của họ cho việc xuất khẩu, song Đông Ấn Hà Lan vẫn mở cửa cho các doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nhân Hà Lan đã thiết lập nên các đồn điền lớn và mang tới cho họ nhiều lợi nhuận. Sản lượng đường đã tăng gấp đôi từ năm 1870 đến 1885; các cây trồng mới như trà và canh ki na phát triển khỏe mạnh,
Suy thoái kinh tế toàn cầu vào cuối thập niên 1880 và đầu thập niên 1890 đã khiến giá cả các mặt hàng mà thực dân Hà Lan dựa vào bị sụt giá. Các ký giả và công chức đã nhận xét rằng phần lớn cư dân Đông Ấn không có đời sống tốt hơn thời kỳ trước khi điều chỉnh Hệ thống Canh tác và hàng chục nghìn người chết vì đói.<ref>Vickers (2005), p. 16</ref> Giá cả hàng hóa đã phục hồi sau cuộc suy thoái, dẫn đến gia tăng đầu tư tại thuộc địa. Buôn bán đường, [[thiếc]], [[cơm dừa khô]] và cà phê đã trở nên phát đạt, và cao su, thuốc lá, trà và dầu cũng trở thành các mặt hàng xuất khẩu chính.<ref>Vickers (2005), p. 18</ref> Cải cách chính trị đã gia tăng quyền tự chủ cho các chính quyền thuộc địa địa phương, thoát ra xa khỏi quyền kiểm soát trung ương từ Hà Lan, trong khi đó, quyền lực cũng được phân chia giữa chính quyền tại Batavia và các đơn vị.
Nâng cấp cơ sở hạ tầng các cảng và đường bộ là ưu tiên ở mức cao của người Hà Lan, với mục tiêu hiện đại hóa nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại, và gia tăng tốc độ của các hoạt động quân sự. Năm 1850, các kỹ sư Hà Lan đã chủ trì xây dựng và nâng cấp một mạng lưới đường bộ với 12.000 km bề mặt được trải nhựa đường, 41.000 km đường được rải đá và 16.000 km đường có bề mặt được rải sỏi.<ref>Marie-Louise ten Horn-van Nispen and Wim Ravesteijn, "The road to an empire: Organisation and technology of road construction in the Dutch East Indies, 1800-1940," ''Journal of Transport History'' (2009) 10#1 pp 40-57</ref> Ngoài ra, người Hà Lan đã sử dụng các nhân công Đông Ấn để xây dựng nên {{convert|7.500|km|mi|sp=us}} đường sắt, các cây cầu, các hệ thống thủy lợi bao phủ 1,4 triệu ha ruộng lúa, một số cảng, và 140 hệ thống nước uống công cộng. Wim Ravesteijn đã nói rằng, "Với những công trình công cộng này, các kỹ sư người Hà Lan đã xây dựng cơ sở vật
==Dân cư==
Hàng 115 ⟶ 114:
|}
Khi người Hà Lan cai quản, họ đã loại bỏ chế độ nô lệ cùng các tập tục như [[Sati (tập tục)|thiêu quả phụ]], [[săn đầu người]], [[ăn thịt đồng loại|ăn thịt người]], [[hải tặc]], và các cuộc chiến tranh giết hại lẫn nhau.<ref name="Friend p21"/> Đường sắt, tàu hơi nước, dịch vụ bưu chính và điện báo, cùng các cơ quan chính quyền khác đã phục vụ cho việc đem đến một sự đồng đều mới trên khắp thuộc địa. Di cư bên trong
Thực dân Hà Lan đã lập ra một tầng lớp trên có đặc quyền đặc lợi bao gồm các binh lính, nhà quản lý, giáo viên và người thám hiểm. Họ sống cùng với "người bản địa", song ở phía trên cùng của một hệ thống xã hội và chủng tộc cứng nhắc.<ref>{{harvnb|last=Vickers|year=2005|p=9}}</ref><ref>{{harvnb|Reid|1974p=170 ndash; 171}}</ref> Đông Ấn Hà Lan có hai tầng lớp công dân hợp pháp; người Âu và dân bản địa. Một tầng lớp thứ ba, những người nước ngoài phương Đông, được bổ sung từ năm 1920.<ref>{{cite book|url=[[:id:Vreemde Oosterlingen]]
Năm 1901, chính quyền Hà Lan đã thông qua điều mà họ gọi là [[Chính sách Đạo đức Hà Lan|Chính sách Đạo đức]], theo đó chính quyền thực dân có một bổn phận để tiếp tục chăm lo sức khỏe và giáo dục cho người dân Indonesia. Các biện pháp khác theo chính sách mới này bao gồm các chương trình thủy lợi, [[Transmigrasi|di cư]], thông tin liên lạc, giảm thiểu lũ lụt, công nghiệp hóa, và bảo vệ ngành công nghiệp bản địa.<ref name="LP_23-25"/> [[Công nghiệp hóa]] đã có không ảnh hưởng đáng kể đến phần lớn người dân Indonesia, và Indonesia vẫn duy trì là một thuộc địa nông nghiệp; năm 1930, có 17 thành phố với dân cư trên 50.000 và dân số tổng cộng của chúng là 1,87 triệu người trên tổng số 60 triệu dân.<ref name="Reid 1974, p. 1"/>
Hàng 123 ⟶ 122:
==Giáo dục==
[[File:COLLECTIE TROPENMUSEUM Leerlingen van de School tot Opleiding van Indische Artsen (STOVIA) Doctor Jawa TMnr 60047128.jpg|thumb|left|Các sinh viên của ''School Tot Opleiding Van Indische Artsen'' (STOVIA) cũng gọi là Sekolah Doctor Jawa.]]
Hệ thống trường học của Hà Lan được mở rộng đến cho người Indonesia, hầu hết các trường có uy tín nhận trẻ em người Hà Lan và các trẻ em người Đông Ấn thuộc tầng lớp trên.
Những người đã tốt nghiệp tại các trường của Hà Lan đã mở trường học của mình và phỏng theo mô hình của hệ thống trường học Hà Lan, cũng như những hội truyền giáo Ki-tô,
[[File:COLLECTIE TROPENMUSEUM Professoren der Rechts Hogeschool in Batavia TMnr 60012567.jpg|thumb|right|Dutch, Eurasian and Javanese professors of law at the opening of the ''Rechts Hogeschool'' in 1924.]]
|