Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người Buryat”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
ZéroBot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.1) (Bot: Thêm ka:ბურიატები
Dòng 32:
Người Buryat có nguồn gốc từ người Eskimo Siberi định cư ở khu vực [[hồ Baikal]]. Sau đó, vào thế kỷ 13, người Mông Cổ đến và nô dịch hóa các bộ lạc Buryat quanh hồ Baikal. Tên gọi "Buriyad" được kể đến là một trong những dân tộc sống trong rừng lần đầu trong ''[[Mông Cổ bí sử]]]'' (có thể là năm 1240).<ref>Erich Haenisch, ''Die Geheime Geschichte der Mongolen'', Leipzig 1948, p. 112</ref> Thư tịch này nói rằng [[Truật Xích]], con trai cả của [[Thành Cát Tư Hãn]], đac hành quân lên phía bắc để chinh phục người Buryat vào năm 1207.<ref>Owen Lattimore-The Mongols of Manchuria, p. 165</ref> Người Buryat lúc đó sống dọc theo sông Angara và các chi lưu. Trong ki đó, một bộ phận của họ, [[người Mông Cổ Barga|Barga]], xuất hiện ở cả phía tây Baikal và ở phía bắc thung lũng Barguzin thuộc [[Cộng hòa Buryatia|Buryatia]] ngày nay. Liên hệ với người Bargas là người Khori-Tumed sống dọc sông Arig ở phía đông [[Khövsgöl (tỉnh)|Khövsgöl]] và [[sông Angara|Angara]].<ref>C.P.Atwood-Encyclopedia of Mongolia and the Mongol Empire, p. 61</ref> Một cuộc nổi dậy nổ ra vào năm 1217, khi Thành Cát Tư Hãn cho phép một người của mình bắt 30 trinh nữ Tumad song đã bị dập tắt. Người Buryat gia nhập vào người Oirat và thách thức quyền cai trị của [[người Mông Cổ Khalkha|người Mông Cổ Đông]] vào thời [[Bắc Nguyên]] cuối thế kỷ 14.<ref>D. T︠S︡ėvėėndorzh, Tu̇u̇khiĭn Khu̇rėėlėn (Mongolyn Shinzhlėkh Ukhaany Akademi) – Mongol Ulsyn tu̇u̇kh: XIV zuuny dund u̇eės XVII zuuny ėkhėn u̇e, p. 43</ref>
 
[[File:Buryatia01.png|left|thumb]]
Về mặt lịch sử, lãnh thổ quanh hồ Baikal thuộc về người Khalkha và dân tộc bản địa (Eskimo Siberi), người Buryat là thần dân của hai hãn người Khalkha là Tusheet và Setsen. Khi Nga mở rộng kiểm soát đến [[Ngoại Baikal]] (miền đông Siberia) vào năm 1609, [[người Cozack]] chỉ tìm thấy một nhóm nhỏ cư dân bản địa nói một phương ngữ Mông Cổ gọi là Buryat và phải cống nạp cho người [[Khalkha]].<ref>University of Pittsburgh. University Center for International Studies, Temple University-Russian history: Histoire russe, p. 464</ref> Tuy nhiên, họ đã đủ mạnh để bắt ép [[người Ket]] và người Samoyed tại Kan và [[người Evenk]] tại Hạ Angara cống nạp cho họ. Tổ tiên của phần lớn người Buryat hiện đại nói một biến thể ngôn ngữ Turk-Tungus vào thời điểm đó.<ref>Bowles, Gordon T. (1977). ''The People of Asia'', pp. 278–279. Weidenfeld and Nicolson, London. ISBN 0-297-77360-7.</ref> Ngoài ra chính các bộ tộc Buryat-Mông Cổ (Bul(a)gad, Khori, Ekhired, Khongoodor) đã hợp nhất với người Buryat, người Buryat cũng đồng hóa các nhóm khác, bao gồm một số [[người Oirat]], [[Khalkha]], Tungus ([[người Evenk]]). Khori-Barga đã thiên di từ Barguzin về phía đông đến vùng đất giữa [[Đại Hưng An Lĩnh]] và Argun. Khoảng năm 1594 hầu hết họ quay trở lại Aga và Nerchinsk để thoát khỏi sự chinh phục của [[người Daur]]. Lãnh thổ và dân tộc này chính thức bị sáp nhập vào Nga bằng các điều ước vào các năm 1689 và 1727, khi đó các lãnh thổ ở cả hai bên [[Hồ Baikal]] bị tách khỏi [[Mông Cổ]] của [[nhà Thanh|Đại Thanh]]. Sự hợp nhất các bộ tộc và nhóm Buryat hiện đại đã diễn ra dưới tình trạng là một phần của nước Nga. Từ giữa thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, dân số người Buryat tăng từ 27.700 lên 300.000.<ref>[http://www.nupi.no/cgi-win/Russland/etnisk_b.exe?Buryatian Buryats]</ref>