Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bùi Lâm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Bùi Lâm''' nhàtên hoạtthật động cách'''Nguyễn mạngVăn (Di''', sinh ngày [[15 tháng 3]] năm [[1905]] -trong 1974)một gia đình nghèo ở xã Gia Hòa, đã[[huyện từngVụ giữBản]], các[[tỉnh chứcNam vụĐịnh]]; Viện trưởng Viện Công tố Trung ương nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1958-1960); đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa II (1960-1965); nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Bungari và Cộng hòa Dân chủ Đức; nguyên Phó Viện trưởng [[Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao Việt Nam]]. Ông qua đời ngày [[10 tháng 5]] năm [[1974]]. <ref>{{Chú thích báo
 
==Quê quán==
Ông tên thật là '''Nguyễn Văn Di''', sinh ngày [[15 tháng 3]] năm [[1905]] trong một gia đình nghèo ở xã Gia Hòa, [[huyện Vụ Bản]], [[tỉnh Nam Định]];
 
==Quá trình hoạt động tại hải ngoại==
Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, sớm có tinh thần yêu nước thương nòi. Từ thuở ấu thơ đã theo cha ra Hải Phòng, rồi đên năm 16 tuổi đã xuống tàu làm thuỷ thủ cho hãng tàu buôn Pháp, chạy qua nhiều nước Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh...
Vào khoảng những năm thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918) ở châu Âu phong trào cách mạng lên cao, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại đã xảy ra: Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, cuộc binh biến của thuỷ thủ Pháp (trong đó có Tôn Đức Thắng) ở Biển đen (Hắc Hải) để ủng hộ nhà nước Cộng hoà Xô viết vừa ra đời Nguyễn Ái Quốc đưa yêu sách đòi quyền tự quyết cho nhân dân Việt Nam tại Hội nghị Véc xay (năm1919).
Ở Pháp, Bùi Lâm được đọc báo Người cùng khổ của Nguyễn Ái Quốc (sau là lãnh tụ Hồ Chí Minh), đã cố công tìm gặp được Nguyễn Ái Quốc vào năm 1922. Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ cho Bùi Lâm và các thuỷ thủ Việt Nam tổ chức đường dây liên lạc, chuyển tài liệu cách mạng về Việt Nam.
Tháng 11 năm 1925 Bùi Lâm gia nhập Đảng cộng sản Pháp, đến cuối năm 1927, ông được Đảng cộng sản Pháp cử đến Mátscơva học trường Đại học Phương Đông.
 
==Tham gia công tác công đoàn==
Khoảng cuối năm 1929, về Sài Gòn, họat động trong tổ chức An nam cộng sản Đảng trực tiếp phụ trách công đoàn.
Khi Đảng cộng sản Đông Dương thành lập, Bùi Lâm được cử làm uỷ viên thường vụ xứ uỷ Nam Kỳ.
Đến tháng 2/1931, được phái ra miền Bắc công tác và bị địch bắt ở Hải Phòng bị kết án 5 năm tù khổ sai, đầy đi Côn Đảo.
 
Sau mãn hạn tù (12/1936) Bùi Lâm về Hải Phòng hoạt động. Tại đây, cùng với Nguyễn Công Hoà, Nguyễn Đức Cúc (Nguyễn Văn Linh).v.v... vận động nhân dân đấu tranh đòi quyền lợi hàng ngày đồng thời kết hợp hoạt động Mặt trận Dân chủ.
 
Khoảng tháng 9/1941, lại bị bắt ở Thanh Hoá và bị thực dân Pháp giam cầm, đày đọa rất dã man ở các nhà tù: Hoả Lò (Hà Nội), Hải Phòng, Quảng Ngãi, Ban Mê Thuột, Sơn La.v.v.
Trong các nhà tù, Bùi Lâm luôn luôn tỏ ra là một đảng viên cộng sản kiên định, trung thành nguy hiểm không sờn, khó không lùi bước tin tưởng ở tiền đồ xán lạn của cách mạng.
Tháng 3 năm 1945 ông đã vượt ngục, tích cực tham gia giành và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ.
 
==Tham gia ngành tư pháp==
Ngày 14 tháng 2 năm 1946, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà ra sắc lệnh (số 21) lập toà án quân sự đặc biệt và cử ông phụ trách.
Với cương vị quan trọng này Bùi Lâm đã góp phần quan trọng thực hiện đường lối bảo vệ cách mạng của Đảng, kịp thời trừng trị bọn phản cách mạng điển hình là vụ án phố Ôn Như Hầu.
 
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông phụ trách Toà án Quân sự liên khu III, rồi lại phụ trách Toà án nhân dân Liên khu.
 
Từ năm 1954 đến năm 1957, giữ chức Giám đốc Vụ Hành chính Tư pháp (thuộc Bộ Tư pháp) và Viện trưởng Viện công tố Trung ương (năm 1958).
 
Năm 1960 ông trúng cử đại biểu quốc hội khoá II, chuyển sang công tác ngoại giao được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước ta tại nước Cộng hoà nhân dân Bungari và sau đó Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại nước cộng hoà dân chủ Đức (năm 1964).
 
Sau khi về nước năm 1967 ông được cử giữ chức Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
 
Ngày 10 tháng 5 năm 1974 ông qua đời.
 
<ref>{{Chú thích báo
| tên=
| họ=