Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lư Nhất Vũ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 2:
'''Lư Nhất Vũ''' (''tên khai sinh là Lê Văn Gắt''), sinh ngày [[13 tháng 3]] năm [[1936]]<ref name=NCAN /> , quê ở [[Thủ Dầu Một]], tỉnh [[Bình Dương]]. Nguyên Ủy viên Ban thư ký Hội [[nhạc sĩ]] [[Việt Nam]] khóa III. Phó tổng thư ký hội âm nhạc [[Thành phố Hồ Chí Minh]] (1981). Nguyên Phân viện trưởng Phân viện Âm nhạc tại [[Thành phố Hồ Chí Minh]]<ref name="NCAN">[http://www.nhipcauamnhac.saigonnet.vn/VIE/news_detail.asp?period_id=1&cat_id=3&news_id=288 Tiểu sử Lư Nhất Vũ], Theo website Nhịp cầu âm nhạc.</ref>.
==Sự nghiệp==
Tháng 6 năm 1962, tốt nghiệp khoa sáng tác của trường Âm nhạc Việt nam (''nay là Nhạc viện Hà Nội''), ông về nhận công tác ở Đoàn ca múa miền Nam<ref name=NCAN /> .
 
Năm 1967, công tác tại phòng chỉ đạo Văn công thuộc Vụ Âm nhạc và múa, theo dõi chỉ đạo hoạt động của Đoàn ca múa nhân dân [[Việt Bắc]], [[Tây Bắc]], [[Tây Nguyên]].
 
Năm 1970, Lư Nhất Vũ trở về chiến trường miền Nam, công tác ở Tiểu ban Văn nghệ giải phóng, hoạt động ở chiến trường miền Tây Nam bộ.
 
Sau năm 1975, ông công tác ở cơ quan Văn nghệ Giải phóng, rồi Viện Nghiên cứu Âm nhạc (''sau này là Viện Văn hóa Nghệ thuật tại TP HCM'') cho đến nay<ref name=NCAN /> .
 
Những sáng tác thanh nhạc: Chiều trên bản Mèo (1961, hợp xướng), Hàng em mang tới chiến hào (1964), Cô gái Sài Gòn đi tải đạn (Giải A của Hội Nhạc sĩ VN và Ban Thống nhất TƯ), Bên tượng đài Bác Hồ, Hãy yên lòng mẹ ơi, Tiếng cồng vượt thác, Hòn Khoai (nhạc cảnh). Đã xuất bản hai tuyển tập Tiếng đàn quê em (NXB Văn hóa, 1982) và Hãy yên lòng mẹ ơi (NXB Âm nhạc và Hội Nhạc sĩ VN, 1995).
 
Ông có một loạt những công trình nghiên cứu đồ sộ về dân ca các miền Nam bộ đã xuất bản (cùng viết với một số tác giả Lê Giang, Nguyễn Đồng Nai, Thạch An, Nguyễn Văn Hoa, Quách Vũ): Dân ca Bến Tre, Kiên Giang, Cửu Long, Sông Bé, Hậu Giang...
 
==Các tác phẩm tiêu biểu==