Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bom lượn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
Bom lượn.
 
Cái tên mô tả dịnh nghĩa của nó.
Hàng 9 ⟶ 8:
Mục tiêu của việc này là đường bay nghiêng hơn, xa hoan đường đạn đạo, hoặc tăng độ chính xác.
 
==Bon lượn trong các vũ khí==
Ngày nay, bom lượn có thể được chế tạo riêng như AGM-62 Walleye. Có khi người ta chế một thiết bị để lắp vào bom thông thường điều khiển nó tăng độ chính xác, ví dụ Joint Direct Attack Munition (JDAM). Có khi một loại vũ khí có phiên bản không động cơ và phiên bản có động cơ để bắn từ máy bay bay chậm như AGM-130 và AGM-158 JASSM, điều này làm ranh giới giữa bom lượn và tên lửa không rõ ràng. Điều này không quan trọng lắm, vì trong hầu hết các ngôn ngữ, người ta ít dùng từ tên lửa trong vũ khí để chỉ vũ khí có điều khiển. Paveway là nhóm các bom lớn của Raytheon Company điều khiển lazer, thuộc loại bom lượn. http://www.globalsecurity.org/military/systems/munitions/gbu-12.htm .
Quả bom GBU-43/B "Mother Of All Bombs", "mẹ của tất cả bom" cũng là bom lượn. Trong khi đó, "Bố của tất cả bom" thì không.
 
==Hai loại bom lượn.==
Bom lượn có thể chia ra hai loại, một loại sử dụng vận tốc ban đầu, bay ngang và một loại sử dụng trọng trường, chỉ hiệu chỉnh đường đạn. Loại thứ nhất có tầm xa, chính xác, bắn được mục tiêu di động, có cánh và xếp vào loại đạn có cánh. Loại thứ hai dùng chống mục tiêu cố định, còn gọi là bom có lái, JDAM chế tạo cho mục đích này.
 
Tiếng Việt chuyên ngành định nghĩa rất chính xác. Nhưng có rất nhiều thứ tiếng Việt lôm côm không định nghĩa được chính xác các loại vũ khí, thường dịch từ "đạn" thành từ "tên lửa". "Đạn bom lượn" vì thế không thể định nghĩa được một cách lôm côm như thế (sẽ là "tên lửa bom lượn"), và gây khó hiểu cho nhiều người không chuyên. Thật ra, trước đây không có chuyện này, từ năm 2000 đến nay, ai cũng cho là mình giỏi hơn đời nên mới ra nông nỗi. Thông tin nhiều, người ta không thể phân biệt ngay được đâu đúng đâu sai, khi mà những người thích khoe chữ lại nói lắm hơn.
 
==Đức Thế chiến 2==
Bom lượn được người Đức phát triển trong Thế chiến thứ 2, mục tiêu ban đầu là chống tầu.
 
HòiHồi thế chiến 2, tầu biển rất khó đánh. Tầu chiến có giáp dầy vè hệ thống pngf không tốt. Các máy bay ném bom bổ nhào rất khó chiến đấu hiệu quả. Người ta cần tìm cách ném bom từ xa. Tuy vậy, tầu chiến nhỏ, nên việc ném bom hạng nặng tầm xa chính xác rất khó. Lúc đó, đã có hai phương án giải quyết.
 
Người Mỹ dử dụng một đoàn máy bay rải thảm, phần lớn đạn trượt, chỉ một phần trũng cũng đủ diệt tầu, họ chế B-25 và B-29.
Hàng 29 ⟶ 31:
Quay lại Thế chiến 2. Ban đầu, người Đức chế tạo bom có điều khiển tăng cường độ chính xác, áp dụng trong các bom chìm. Sau đó, phòng không phát triển và nhu cầu về loại bom lượn có cánh có điều khiển xuất hiện. Chương trình được phát triẻn từ năm 1939.
 
===Đức Thế chiến 2, R/C===
Cấu hình ban đầu là bom lượn có cánh, được điều khiển bằng lệnh qua radio (R/C). Người ta dùng một antena chấn tử đặt sau đuôi bom để nhận lệnh. Phiên bản ban đầu máy điều khiển 100kg dùng trong Ruhrstahl SD 1400 ( Splitterbombe, dickwandig, 1400 kg. Tiếng Đức "nổ phá, tường dầy, 1400 kg"). Sau đấy là bản thực tế hơn ra đời, tạo thành nhóm đạn có điều khiển Fritz X. Loại đạn này được chế tạo nhiều phiên bản như Ruhrstahl SD 1400 X, X-1, PC 1400X or FX 1400, trong này có cả bom lượn và đạn tên lửa. Thật ra, khó có thể gọi là tên lửa vì những phiên bản có động cơ được sử dụng để thuận tiện phóng tốc độ thấp, đây chỉ là động cơ tăng tốc ban đầu, thời gian làm việc rất ngắn so với thời gian bom hoạt động.
 
Hàng 44 ⟶ 47:
Tuy nhiên, khó khăn lớn với thiết bị điều khiển R/C hồi đấy: nó không thể bắn nhiều đạn một lúc, rất khó chế tạo, rất khó điều khiển. Nhưng cản trở lớn nhất xuất hiện, người Anh phát hiện ra mã lệnh R/C, mà thay đổi mã này rất khó. Điều này dẫn đến việc phương án R/C dừng. Tuy các thiết bị gây nhiễu đã được lắp trên các tàu chiến Đồng minh, nhưng không hiểu sao đến D-day, chiếc Svenner của Na-Yu vẫn ăn chưởng.
 
===Đức Thế chiến 2, Radio Homing===
Phương án thứ 2 là "củ cải", nguyên lý tự tìm mục tiêu radio, hay tiền thân của "radar bán chủ động". Máy bay mẹ chiếu sóng radio vào tầu địch với cường độ cao, phản xạ được đạn thu lại và định hướng đạn. Vì thiết bị này lắp ở đầu đầu đạn, trông như củ cải đỏ nên có tên như vậy.
 
Blohm & Voss BV 246 được phát triển năm 1943 với tư cách là bom lượn diệt tầu tầm xa. Bom được thiết kế để bắn xa 100km, ban đầu sử dụng R/C, ngày 12/12-1943, bom được đặt hàng sản xuất hàng loạt. Tuy vậy, năm 1944 do phần điều khiển không chống được thiết bị gây nhiễu nên chương trình dừng. Đến năm 1945, bom được tái khởi động chương trình, tên mới là BV 246-củ cải để phân biệt với đời cũ. Thử nghiệm đầu tiên tại Unterlüss, 10 quả chỉ 2 quả trúng mục tiêu 2 mét. 1000 quả được đặt hàng, nhưng do thiếu phần diều khiển(đang phát triển), nên không quả nào được dùng. Cấu tạo phần cơ của vũ khí này rất tốt. Phát triển lớn nhất của vũ khí này ở chỗ, nó đã có 2 con quay hồi chuyển, đo xa radio và máy tính tương tự đơn giản, nó đúng là một viên đạn có điều khiển như ngày nay. http://www.luft46.com/missile/bv246.html .
 
==Mỹ Thế chiến 2==
 
ATSC VB-1/VB-2 Azon and VB-3/VB-4 Razon của Mỹ, đến VB-13 rất giống Đức, trước chiến tranh, các nhà khoa học đã trao đổi kinh nghiệm. Chương trình của Mỹ khởi đọng từ năm 1943, một số lượng lớn bom VB đã được chế tạo, nhưng hầu như không được sử dụng. Cánh quá bé làm bom này rất khó điều khiển. Thật ra, người Mỹ chỉ mơ hồ có được một hình ảnh Bom Đức mà không hề có khái niệm về điều khiển, họ dự định một đường bay thẳng tắp như đường đạn súng trường dưới tác động của động cơ và các cánh khí động, nhưng điều đó đã không xảy ra. Những loại này không thể xếp vào đạn có điều khiển.