Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đoàn Như Khuê”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Pvloc90 (thảo luận | đóng góp)
n cho gọn lại
Dòng 1:
'''Đoàn Như Khuê''' ([[1883]][[1957]]), tự: '''Quý Huyền''', hiệu: '''Hải Nam''', là [[nhà báo]], [[nhà thơ]] [[Việt Nam]] [[thời tiền chiến]].
==Tiểu sử sơ lược==
'''ĐoànÔng Như Khuê''', người làng Hải Yến, huyện [[Tiên Lữ]], tỉnh [[Hưng Yên]]. Thuở nhỏ ông theo học [[chữ Hán]], có đi [[thi Hương]] mấy lần nhưng đều hỏng. Sau, ông bỏ học chữ Hán, tự học [[Quốc ngữ]]; ra [[Hà Nội]] viết sách, dịch sách, và viết cho tờ ''[[Nam Phong tạp chí]]'', ''[[Đông Dương tạp chí]]'', v.v...
 
Rồi ông bỏ học chữ Hán, tự học [[Quốc ngữ]]; ra [[Hà Nội]] viết sách, dịch sách, và viết cho tờ [[Nam Phong tạp chí]], [[Đông Dương tạp chí]]...
Sau năm [[1945]] ông tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc Liên khu III.
 
Khi [[Hiệp định Genève]] [[1954]] được ký kết, hòa bình được tái lập;, ông về định cư ở Hà Nội, và vẫn sống bằng nghề dịch thuật và văn triết cổ [[Trung Quốc]] cho đến khi mất ([[1957]]).
==Tác phẩm==
Sáng tác của Đoàn Như Khuê, gồm có:
*'''Một tấm lòng''' (thơ, in lần thứ nhất tại nhà in Mạc Đình Tư, Hà Nội, 1917). [[Vũ Ngọc Phan]] cho biết khi Đoàn Như Khuê có mặt trong bộ [[Nhà văn hiện đại]] (1942), thì tập thơ này đã được tái bản lần thứ năm5.
 
*'''Một tấm lòng''' (thơ, in lần thứ nhất tại nhà in Mạc Đình Tư, Hà Nội, 1917). [[Vũ Ngọc Phan]] cho biết khi Đoàn Như Khuê có mặt trong bộ [[Nhà văn hiện đại]] (1942), thì tập thơ này đã được tái bản lần thứ năm.
 
*'''Cảo thơm''' (thơ văn hợp tuyển, in tại nhà in Ngô Tử Hạ, Hà Nội, 1924). Đây là tập thi văn hợp tuyển, trích lục từ thơ của vua [[Lê Thánh Tôn]] đến thơ của [[Trần Tế Xương]], cả những bài [[phú]], [[văn tế]], [[câu đối]] của những nhà thơ có tiếng như [[Nguyễn Khuyến]], [[Dương Khuê]]. Đề cập đến tác phẩm này, Vũ Ngọc Phan viết: ''Thơ văn trong Cảo thơm, biên giả xếp lộn xộn lắm; đã thế có nhiều câu lại chép sai, lầm lẫn cả tên, như chép Phò mã Võ Tính ([[Võ Tánh]]) thành Nguyễn Văn Tính.''
*'''Luận ngữ cách ngôn''' (sách [[Luận ngữ]] trích dịch ra văn vần dùng làm sách giáo khoa, Hà Nội, 1927).
*'''LuậnMinh ngữđạo cáchgia ngônhuấn''' (sách [[Luận ngữ]] trích dịch ra văn vần dùng làm sách giáo khoa, chưa Nội, 1927)năm xuất bản).
*'''MinhGương đạođại gia huấnđình''' (dịch ratên vănNam vầnThăng dùng làm sách giáo khoa, chưa rõ năm xuất bản).
*'''Gương đại gia đình''' (ký tên Nam Thăng Dã, chưa rõ năm xuất bản)
==Đánh giá==
Đoàn Như Khuê, sở trường về thơ [[Nôm]]. Ông được nhà nghiên cứu văn học [[Phạm Thế Ngũ]] xếp vào nhóm ''các nhà làm thơ ở giai đoạn [[1907]]-[[1932]]'', cùng lời giới thiệu như sau:
:''Ông là nhà thơ cùng thời với [[Tản Đà]], có tác phẩm in ra sớm nhất trong giai đoạn này. Năm [[1917]], ngay lúc ''"[[Nam phong tạp chí'']]" chưa ra, ông đã cho xuất bản tập thơ ''"Một tấm lòng''", và được [[Phạm Quỳnh]] chào mừng như một dấu hiệu tốt của nền văn [[Quốc ngữ]] khi còn sơ khai.''.
 
'''Một tấm lòng''' là tập thơ đầu và cũng là tập thơ duy nhất của ông. Ở đây thơ được làm theo đủ thứ thể loại: ''[[Đường luật|luật Đường]], cổ phong, [[tứ lục]], lục bát, song thất lục bát, [[hát xẩm]], [[hát ả đào]], [[phong dao]]''..., và có đến ba phần tư tập thơ đều thuộc loại ''thù ứng'', ''hiếu hỉ'', như: ''Mừng bạn mới cưới vợ, Mừng một bà tiết phụ, Thay lời bạn khóc vợ, Khóc bạn thân'',...Cho nên theo Vũ Ngọc Phan thì nó mắc phải cái bệnh ''Ý kiến đã không mới mẻ, nó lại còn không có tư tưởng gì, không ra khỏi cái vòng chơi chữ''; còn theo Phạm Thế Ngũ thì ''nó mắc phải cái bệnh hời hợt, khách sáo, chắp ghép vụng về như thường thấy ở loại thơ này, như'':
 
'''Một tấm lòng''' là tập thơ đầu và cũng là tập thơ duy nhất của ông. Ở đây thơ được làm theo đủ thứ thể loại: ''[[Đường luật|luật Đường]], cổ phong, [[tứ lục]], [[Thơ|lục bát]], [[Thơ song thất lục bát|song thất lục bát]], [[hát xẩm]], [[hát ả đào]], [[phong dao]]''..., và có đến ba phần tư tập thơ đều thuộc loại ''"thù ứng''", ''"hiếu hỉ''", như các bài: ''Mừng bạn mới cưới vợ, Mừng một bà tiết phụ, Thay lời bạn khóc vợ, Khóc bạn thân'',...Cho nên theo [[Vũ Ngọc Phan]] thì nó mắc phải cái bệnh ''"Ý kiến đã không mới mẻ, nó lại còn không có tư tưởng gì, không ra khỏi cái vòng chơi chữ'';". cònCòn theo Phạm Thế Ngũ thì ''"nó mắc phải cái bệnh hời hợt, khách sáo, chắp ghép vụng về như thường thấy ở loại thơ này", như'':
:''Cô dâu đeo những kim cương,
:''Rõ ràng giá đúc nhà vàng chẳng ngoa...''
:...''Rất sang trọng vẻ vang tiệc ấy,
:''Tự xưa nay chưa thấy hai lần.
:"''Nức danh đôi họ Châu Trần,
:''Người trong tiệc cũng dự phần vinh quang.''
:(Ghi chép đám cưới to)
 
Tuy nhiên, Phạm Thế Ngũ cũng như trước đó là Phạm Quỳnh và Vũ Ngọc Phan, đều có chung ý kiến là: ''Trong suốt tập thơ này, chỉ lựa được một hạt châu duy nhất, đó là bài ''"Bể thảm'' (xem bên dưới)". Đây là bài thơ nổi tiếng nhất, góp phần làm cho “thơthơ thời kỳ [[1910 ]]- [[1930]] đầy tính chất bi luỵ: người khóc vợ ([[Đông Hồ]]) , kẻ khóc chồng ([[Tương Phố]]), riêng Đoàn Như Khuê thì khóc đời!
:''Bể thảm mênh mông sóng lụt trời!
:''Khách trần chèo một lá thuyền chơi
:''Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,
:''Coi lại cùng trong bể thảm thôi!''
:''(trích Bể thẳmthảm, 1917)
 
Phạm Thế Ngũ cũng đã trích dẫn thêm hai đoạn thơ sau, kèm theo lời giới thiệu: ''Đây, một vài câu thơ buồn khác hòa chung với cái điệu buồn của cả thời đại''.
 
:''Nước chảy chảy theo đôi dòng lệ,
:''Nhà xa xa cách mấy ngàn dâu.
:''Sông Thương sực nhớ đêm mưa gió,
:''Kẻ ngược người xuôi một chuến tàu.''
:(Chơi Việt Trì nhớ bạn)
 
:''Đỉnh núi bơ vơ đàn nhạc lạc,
:''Tường đông lốp đốp hạt mưa mau.
:''Năm canh một ngọn đèn xanh ngắt,
:''Thêm giật mình cho trận gió lau.''
:(Trời thu nhớ nhà)
 
Ông còn có bài thơ ''Thuyền chơi Bạch Đằng Giang'' gửi gắm tâm sự của người dân mất nước:
:''Kìa Bạch Đằng Giang dải nước xanh,
:''Khi thì gươm giáo lúc đàn sênh.
:''Bức tranh sơn thuỷ nhìn như vẽ,
:''Lớp sóng tang thương nghĩ giật mình.
:''Thấp thoáng người xưa qua bóng hạc,
:''Bâng khuâng canh vắng thoảng chuông kình.
:''Nỗi lòng muốn hỏi nghìn năm trước,
:''Mây kéo lưng giời nước uốn quanh.
 
== Chú thích ==