Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phan Văn Đáng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Tham khảo: thay bản mẫu
Dòng 3:
 
==Cuộc đời và sự nghiệp==
Phan Văn Đáng (Hai Văn), sinh ra trong gia đình giàu truyền thống yêu nước tại [[Tam Bình]], tỉnh [[Vĩnh Long]]. Cha ông tên là Phan Văn Hòa, là đảng viên đảng cộng sản đầu tiên tại xóm Ngã Cại, nơi có chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930. Năm 1940, Phan Văn Hòa là Bí thư Huyện ủy Tam Bình, Vĩnh Long, lãnh đạo khởi nghĩa Nam Kỳ tại chợ Cái Ngang. Ông Hòa bị bắt đày đi [[Côn Đảo]] và chết tại đó. Hai người em ông Hòa là Phan Thị Tốt và Phan Văn Trạch cũng là những người tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ tại quê nhà.
 
Năm 1930 khi mới 12 tuổi, ôngPhan Văn Đáng tham gia làm liên lạc, rải truyền đơn, ở quận Tam Bình. Trong khoảng 1931-1940, ông tham gia trong các tổ chức thanh niên cách mạng tỉnh Vĩnh Long.
Cha ông tên là Phan Văn Hòa, là đảng viên đảng cộng sản đầu tiên tại xóm Ngã Cại, nơi có chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930. Năm 1940, ông <!-- ai? Phan Văn Hòa hay Phan Văn Đáng?-->là Bí thư Huyện ủy Tam Bình, Vĩnh Long, lãnh đạo khởi nghĩa Nam Kỳ tại chợ Cái Ngang. Ông bị bắt đày đi [[Côn Đảo]] và chết tại đó. Hai người em là Phan Thị Tốt và Phan Văn Trạch cũng là những người tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ tại quê nhà.
 
Năm 1930 khi mới 12 tuổi, ông tham gia làm liên lạc, rải truyền đơn, ở quận Tam Bình. Trong khoảng 1931-1940, ông tham gia trong các tổ chức thanh niên cách mạng tỉnh Vĩnh Long.
 
Tháng 9 năm 1939, ông được kết nạp vào [[Đảng Cộng sản Đông Dương]]. Năm 1940 ông là thành viên của ban lãnh đạo khởi nghĩa cướp chính quyền tại Tam Bình; tháng 12 năm 1940 bị Pháp bắt kết án 20 năm khổ sai và biệt xứ đày ra Côn Đảo.
Hàng 21 ⟶ 19:
Từ năm 1961 đến năm 1965, ông là Phó Bí thư [[Trung ương Cục miền Nam]], kiêm Trưởng Ban Tổ chức và Trưởng Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam. Đồng thời là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam]], Chủ tịch Công đoàn Giải phóng.
 
Từ tháng 10 năm 1975, Ông là Uỷ viên Thường trực ban đại diện Đảng và Chính phủ tại miền Nam, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Trưởng Tiểu ban Bảo vểvệ Đảng Trung ương.
 
Ông là đại biểu Quốc hội khoá VI, giữ chức Phó chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.