Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Địa lý Việt Nam”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 52:
{{Chính|Khí hậu Việt Nam}}
[[Tập tin:Typhoon Lingling 2001.jpg|nhỏ|phải|230px|[[Bão Lingling]] bên ngoài bờ biển Việt Nam năm [[2001]]]]
Dọc theo lãnh thổ trải dài khí hậu Việt Nam phân bố thành 3 vùng: miền bắc có khí hậu [[cận nhiệt đới|cận nhiệt đới ẩm]], miền trung mang đặc điểm khí hậu [[nhiệt đới gió mùa]], trong khi khi miền nam nằm trong vùng [[khí hậu xavan|nhiệt đới xavan]]. Khí hậu Việt Nam có [[độ ẩm tương đối]] trung bình 84-100[[phần trăm|%]] cả năm. Tuy nhiên, vì có sự khác biệt về [[vĩ độ]] và sự khác biệt địa hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét theo từng vùng. Trong [[mùa đông]] hay [[mùa khô]], khoảng từ [[tháng 11]] đến [[tháng 4]] năm sau, gió mùa thường thổi từ phía đông bắc dọc theo bờ biển Trung Quốc, qua [[vịnh Bắc Bộ]], luôn theo các thung lũng sông giữa các cánh cung núi ở Đông Bắc mang theo nhiều hơi ẩm; vì vậy ở đa số các vùng việc phân biệt mùa đông là mùa khô chỉ là khi đem nó so sánh với [[mùa mưa]] hay [[mùa hè]]. Trong thời gian gió mùa tây nam mùa hè, xảy ra từ [[tháng 5]] đến [[tháng 10]], không khí nóng từ [[sa mạc Gobi]] phát triển xa về phía bắc, khiến không khí ẩm từ biển tràn vào trong đất liền gây nên mưa nhiều.
Lượng mưa hàng năm ở mọi vùng đều lớn dao động từ 120 đến 300 [[xentimét]], và ở một số nơi có thể gây nên lũ. Gần 90% lượng mưa đổ xuống vào mùa hè. [[Nhiệt độ]] trung bình hàng năm ở đồng bằng nói chung hơi cao hơn so với vùng núi và cao nguyên. Dao động nhiệt độ từ mức thấp nhất là 5[[độ C|°C]] từ [[tháng 12]] đến [[tháng 1]], tháng lạnh nhất, cho tới hơn 37°C vào tháng 4, tháng nóng nhất. Sự phân chia mùa ở nửa phía bắc rõ rệt hơn nửa phía nam, nơi mà chỉ ngoại trừ vùng cao nguyên, nhiệt độ mùa chỉ chênh lệch vài độ, thường trong khoảng 21-28°C.
|