Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Polyme nanocompozit”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
==Giới thiệu chung==
[[Image:nanoclay.jpg|phải|nhỏ|250px|Cấu trúc lý tưởng của nanoclay montmorillonit]]▼
'''Vật liệu Polyme Nanocompozit''' là một loại polyme compozit "'''mới'''" mà trong đó các hạt độn (''filled-particle'') trong mạng nền polyme (''polymer matrix'') có kích thước nanomet.
Một loại hạt độn nano đặc biệt là [[nanoclay]] (nano khoáng sét). Chúng được cấu tạo từ các lớp mỏng, mỗi lớp có chiều dày từ một đến vài nanomét, còn chiều dài từ vài trăm đến vài nghìn nanomet. [[
==Phân loại polyme nanocompozit==
Khi cho [[nanoclay]] vào trong mạng nền polyme, có thể tạo thành ba dạng vật liệu sau:
Dòng 11:
*Vật liệu polyme nanocompozit tách lớp (''exfoliated or delaminated polymer-clay nanocomposites''): các [[nanoclay]] đã phân tán trong mạng nền polyme ở dạng từng lớp 1nm.
==Cấu trúc của nanoclay==
▲[[Image:nanoclay.jpg|phải|nhỏ|250px|Cấu trúc lý tưởng của nanoclay montmorillonit]]
Năm 1933, U. Hoffman, K. Endell và D. Wilm công bố cấu trúc tinh thể lý tưởng của [[montmorillonit]] ''(xem hình bên)''. Cấu trúc này bao gồm 02 tấm tứ diện chứa [[silic]] và 01 tấm bát diện chứa [[nhôm]] hoặc [[magie]] diện bị kẹp giữa 2 tấm tứ diện. Các tấm này có chung các nguyên tử [[oxy]] ở đỉnh.
Do khả năng thay thế đồng hình của Si<sup>4+</sup> cho Al<sup>3+</sup> ở tấm tứ diện và của Al<sup>3+</sup> cho Mg<sup>2+</sup> ở tấm bát diện mà giữa các lớp nanoclay có điện tích âm. Các điện tích âm này được trung hòa bởi các [[cation]] như Ca<sup>2+</sup> và Na<sup>+</sup> ở giữa các lớp clay. Ngoài ra, do nanoclay có tính ưa nước cao, giữa các lớp nanoclay thường có các nguyên tử [[nước]]. Các lớp nanoclay được liên kết với nhau bằng lực [[van der Waals]].
[[Thể loại:Vật liệu compozit]]
[[Thể loại:Polyme]]
|