Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Polyme nanocompozit”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Polyme Nanocompozit đổi thành Polyme nanocompozit
Dòng 16:
Do khả năng thay thế đồng hình của Si<sup>4+</sup> cho Al<sup>3+</sup> ở tấm tứ diện và của Al<sup>3+</sup> cho Mg<sup>2+</sup> ở tấm bát diện mà giữa các lớp nanoclay có điện tích âm. Các điện tích âm này được trung hòa bởi các [[cation]] như Ca<sup>2+</sup> và Na<sup>+</sup> ở giữa các lớp clay. Ngoài ra, do nanoclay có tính ưa nước cao, giữa các lớp nanoclay thường có các nguyên tử [[nước]]. Các lớp nanoclay được liên kết với nhau bằng lực [[van der Waals]].
Chiều dày một lớp nanoclay là 9,6Ǻ. Còn tổng độ dài của chiều dày một lớp nanoclay với khoảng cách giữa hai lớp nanoclay được gọi là '''khoảng cách cơ bản''' (''d-spacing'')
==Các phương pháp chế tạo polyme nanocompozit==
Do bản chất của nanoclay và polyme rất khác nhau - nanoclay là chất vô cơ và có tính ưa nước, còn polyme là chất hữu cơ và nói chung không ưa nước - nên việc đưa nanoclay vào trong mạng nền polyme là rất khó khăn.
Do vậy, nanoclay thường được biến tính trước khi cho vào polyme bằng cách kết hợp với các chất hoạt tính bề mặt (''surfactants'') hoặc các tác nhân tương hợp (''compatibilizing agents'') như các [[axít]] [[aminô]], các [[iôn]] [[alkyl amonium]], [[silan]], [[crown ete]]...
Thông thường, các phương pháp chế tạo được phân loại thành:
:* Trùng hợp in-situ (''In-situ polymerization'')
:* Trộn hợp nóng chảy (''Melt intercalation'')
:* Trộn hợp polyme trong dung dịch (''Polymer solution intercalation'')
:* Trùng hợp nhũ tương (''Emulsion intercalation'')
[[Thể loại:Vật liệu compozit]]
[[Thể loại:Polyme]]