Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đặng Minh Khiêm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n dọn dẹp
Dòng 1:
'''Đặng Minh Khiêm''' (鄧鳴謙, [[1456]]?-[[1522]]?)<ref> Năm sinh năm mất biên theo Bùi Duy Tân, ''Từ điển văn học'' (bộ mới), tr. 391.</ref>, tự '''Trinh Dự''', hiệu '''Thoát Hiên'''; là danh thần và là danh sĩ [[Việt Nam]] thời [[Lê sơ]].
 
== Thân thế ==
Nguyên quán ông ở huyện [[Thiên Lộc]], nay thuộc tỉnh [[Hà Tĩnh]]; sau dời đến ở xã Mạo Phố, huyện Sơn Vi (nay là thôn Mạo Phố, xã Lương Lỗ, huyện [[Thanh Ba]]), tỉnh [[Phú Thọ]].
 
Ông thuộc dòng dõi danh tướng [[Đặng Tất]] (?-[[1409]]) và Đặng Dung (?-[[1414]]) thời [[nhà Hậu Trần |Hậu Trần]]. Cha Đặng Minh Khiêm là Đặng Di, đỗ [[Hoàng giáp]] năm [[1453]] dưới triều vua [[Lê Nhân Tông]] (ở ngôi: [[1442]]-[[1459]]) <ref>[[Phan Huy Chú]], ''Lịch triều hiến chương loại chí'' (tập 1, phần "Nhân vật chí"), tr 373.</ref>.
 
== Sự nghiệp ==
Dòng 20:
*'''Giang Tây khúc thuyền thi tập''' (Tập thơ chèo thuyền ở Giang Tây), làm khi đi sứ, nhưng nay đã thất truyền.
 
*'''Việt Giám vịnh sử tập''' (Tập thơ vịnh sử làm tấm gương soi của nước Việt), còn gọi là '''Thoát Hiên vịnh sử tập''', gồm 3 tập, 125 bài thơ [[chữ Hán]] làm theo thể thất ngôn tuyệt cú, vịnh 125 nhân vật (đế vương, tông thất, danh thần, danh nho, tiết nghĩa, v.v...) từ thời [[Kinh Dương Vương]] đến thời Hậu Trần. Ngoài thơ vịnh, mỗi nhân vật đều có một tiểu dẫn sơ lược về lai lịch và hành trạng. Trong tập thơ “những chỗ khen, chê, bỏ lấy, đều có ý sâu xa” ([[Phan Huy Chú]]), được nhiều danh sĩ xưa coi là một thiên “danh bút” ([[Phan Huy Chú]]), là một áng “văn chương kiệt tác” ([[Lê Quý Đôn]]), được rất nhiều người truyền tụng (theo [[Hà Nhậm Đại]])<ref>Theo Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr. 392.</ref>. Sau, Tiến sĩ triều [[Nhà Hậu Lê|Lê]] là [[Hà Nhậm Đại]] ([[1525]]-?) đã mô phỏng tập thơ này làm ra tập ''Lê triều khiếu vịnh thi tập'' (Tập thơ ca vịnh dưới triều Lê)<ref> Theo Phan Huy Chú, ''Lịch triều hiến chương loại chí'' (tập 3, phần "Văn tịch chí", tr. 127)</ref>.
 
==Nhận xét==
Dòng 35:
 
Trong ''[[Lịch triều hiến chương loại chí]]'', danh sĩ triều [[Nhà Nguyễn|Nguyễn]] là [[Phan Huy Chú]] cũng có lời ca ngợi ông như sau:
:''"Ông (Đặng Minh Khiêm) học vấn rộng rãi, chân chính, khẳng khái, có tiết tháo lớn…Bấy giờ (trong đời vua Lê Chiêu Tông) trong nước lúc đó có nhiều biến cố, ông vẫn nghiêm sắc mặt đứng giữ triều đình, có khí tiết cứng cỏi, không lay chuyển được. Ông lấy hiệu là Thoát Hiên tiên sinh, giữ mình thẳng thắng, không ỷ lại phụ họa với ai. Sau ông biết thời sự không thể làm được, nên mượn sử sách ngâm vinh để tiêu khiển. Văn chương ông thanh nhã, dồi dào, đời vẫn truyền tụng. Ông là người có văn học tiết tháo, là bậc danh nho đầu đời Lê. Sử khen ông là bậc khoa danh. Người ta cho là [[Đặng Tất]], [[Đặng Dung]] có con cháu khá"'' (ý chỉ ông)<ref >Phan Huy Chú (sách đã dẫn, tr. 373). Các chữ trong ngoặc là của người soạn.</ref>.
 
==Xem thêm ==
Dòng 43:
==Nguồn tham khảo ==
*[[Phan Huy Chú]], ''Lịch triều hiến chương loại chí'' (tập 1 và tập 3). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992
*Bùi Duy Tân, mục từ “Đặng Minh Khiêm” trong ''Từ điển văn học'' (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
*[[Trần Văn Giáp]], ''Tìm hiểu kho sách Hán Nôm'', Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003.
*''Đặng Tộc Đại Tông Phả'', Yến Quận công Đặng Tiến Thự viết năm 1683, Tiến sĩ Ứng Quận công Đặng Đình Tướng tục biên năm 1686, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn tiếp tục tục biên năm 1745, Nguyễn Văn Thành giới thiệu. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2002.
Dòng 49:
 
== Chú thích ==
{{reflist|}}
 
[[Thể loại:Người Phú Thọ]]
[[Thể loại:Người Hà Tĩnh]]
[[Thể_loạiThể loại:Nhà ngoại giao Việt Nam thời Lê sơ]]
[[Thể loại:Nhà thơ Việt Nam thời Lê sơ]]
[[Thể_loạiThể loại:Quan nhà Lê sơ]]