Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kênh Vĩnh Tế”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n bài chủ yếu về kênh, việc đất đai nói gọn thôi.
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n dọn dẹp
Dòng 58:
| chú thích =
}}
'''Kinh Vĩnh Tế''' nằm tại địa phận hai [[tỉnh Việt Nam|tỉnh]] [[An Giang]] và [[Kiên Giang]], thuộc [[đồng bằng sông Cửu Long]]. Đây là một con [[kênh đào]] lớn nhất trong lịch sử thời phong kiến [[Việt Nam]] <ref> Theo ''Kỷ yếu'', tr. 65.</ref>.
 
==Nguyên nhân==
Kênh Vĩnh Tế đào song song với đường biên giới [[Việt Nam]]-[[Campuchia]], bắt đầu từ bờ tây sông [[Châu Đốc]] thẳng nối giáp với sông [[Giang Thành]], thuộc thị xã [[Hà Tiên]], tỉnh [[Kiên Giang]] ngày nay.
 
Nguyên nhân là vào năm [[1816]], khi thành [[Châu Đốc]] được đắp xong, Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh [[Lưu Phước Tường]] tâu lên, vua [[Gia Long]] xem địa đồ miền đất này liền truyền: ''Xứ này nếu mở đường thủy thông với [[Hà Tiên]], thì hai đàng nông thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến ở làng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to vậy''. Biết thế, nhưng vua chưa ra lệnh đào ngay vì ngại đây là vùng đất mới mở, nhân dân còn cơ cực, nếu bắt làm xâu thêm khổ sở, lòng dân sẽ không yên <ref> Theo ''Quốc triều sử toát yếu'', phần Chánh biên (bản dịch, tr. 130).</ref>
 
Song mãi đến [[tháng 9]] ([[âm lịch]]) năm [[Kỷ Mão]] ([[1819]]), vua [[Gia Long]] mới cho lệnh đào kênh, và công việc được bắt đầu khởi công vào ngày 15 [[tháng Chạp]] năm ấy<ref>Theo [[Trịnh Hoài Đức]], ''[[Gia Định thành thông chí]]'', mục “Vĩnh Tế Hà”.</ref> .
Sách ''Quốc triều sử toát yếu'', phần Chánh biên, chép:
:''"[[Tháng 9]], (cho) đào sông [[Châu Đốc]] thông với [[Hà Tiên]], gọi là sông Vĩnh Tế <ref>Lẽ ra phải viết là “sau gọi là sông (kênh) Vĩnh Tế” mới đúng, vì lúc ấy kênh chưa đào và chưa được tứ danh. Có lẽ sử thần khi chép lại đã không chú ý đến thời gian tính trong lời nói của nhà vua (giải thích theo [[Nguyễn Văn Hầu]], tr. 193).</ref> Ngài ([[Gia Long]]) nghĩ trấn Vĩnh Thanh, trấn Hà Tiên gần nước [[Chân Lạp]] mà không có đàng thủy, qua lại không tiện. Lúc ấy có quan Chiêu thùy Chân Lạp là Đông Phòng sang chầu, Ngài đòi vào hỏi việc đào sông, (viên quan ấy) tâu rằng: 'Nếu đào sông ấy thời ích lợi cho dân Chân Lạp lắm'. Ngài vui lòng. Liền truyền dụ dân Vĩnh Thanh rằng: 'Công trình đào sông ấy rất khó, việc Nhà nước và cách phòng giữ bờ cõi quan hệ rất lớn. Các ngươi tuy khó nhọc một lần, mà ích lợi cho muôn đời ngày sau; dân ngươi phải báo cho nhau biết chớ nên sợ nhọc'"'' <ref> Theo ''Toát yếu'' (bản dịch, tr. 140). '''Thông tin thêm''': Vào thời điểm bắt đầu đào cho đến lúc hoàn thành xong kênh Vĩnh Tế, thì con kênh này là một con sông nhân tạo mang tính quốc tế, lộ trình của tuyến kênh đi qua lãnh thổ của cả hai nước [[Đại Nam]] và [[Cao Miên]]. Hai đoạn đầu (ngã ba [[sông Châu Đốc]] tại [[Châu Đốc]]) và cuối (ngã ba nối với sông Giang Thành [[tỉnh Hà Tiên]]) kênh nằm trên đất Đại Nam. Khúc giữa cắt qua huyện Chân Thành phủ Chân Thành (tức phủ Chân Chiêm) của Cao Miên. Huyện này đến năm [[1839]] mới được chính thức nhập vào Đại Nam, trở thành phủ Tĩnh Biên tỉnh Hà Tiên, gồm 2 huyện [[Hà Âm]] (nay là huyện [[Kiri Vong]] tỉnh [[Takéo]] Campuchia) và [[Hà Dương (huyện)|Hà Dương]] (nay là các huyện [[Tịnh Biên]] và [[Tri Tôn, An Giang|Tri Tôn]] tỉnh [[An Giang]] Việt Nam). Tháng 4 âm lịch năm 1824, Nặc Ông Chân ([[Ang Chan II]]), hiến tặng nhà Nguyễn thông qua [[Nguyễn Văn Thoại]] (để trả ơn Thoại), 3 vùng Chân Sum (còn gọi là Chân Thành hay Chân Chiêm, nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Mật Luật (Ngọc Luật, cũng nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Lợi Kha Bát ([[Prey Kabbas]] [[tỉnh Takeo]]). Nhà Nguyễn chỉ lấy 2 đất Chân Sum và Mật Luật. Chân Sum sau được phân vào hai huyện [[Hà Âm]] và Hà Dương từng thuộc phủ Tĩnh Biên Hà Tiên, trước khi chia về cho tỉnh [[An Giang]] (theo ''[[Đại Nam thực lục]]'', chính biên, đệ nhị kỷ, quyển CCVII, Thực lục về Thánh tổ Nhân hoàng đế, tập 5, trang 617).</ref>.
 
==Tóm lược các giai đoạn đào kênh==
Công trình đào kênh Vĩnh Tế kéo dài từ thời tướng [[Nguyễn Văn Nhơn]] làm Tổng trấn [[Gia Định Thành]] ([[1819]]-[[1820]]) cho đến thời tướng [[Lê Văn Duyệt]] làm Tổng trấn Gia Định Thành ([[1820]]-[[1832]]) mới xong. Có thể xem hai ông như là “Tổng chi huy” của công trình. Ngoài ra, lần lượt còn có sự góp sức của hai Phó tổng trấn là [[Trương Tấn Bửu]] và [[Trần Văn Năng]].<ref> Theo Châu Hữu Hầu, ''Kỷ yếu'', tr. 56.</ref>.
 
*'''Giai đoạn 1''': Khởi công vào [[tháng 12]] ([[âm lịch]]) năm [[1819]] đến [[tháng 3]] ([[âm lịch]]) năm [[1820]] thì tạm dừng.
:-Chỉ huy trực tiếp là các quan: [[Thoại Ngọc Hầu|Nguyễn Văn Thoại]], [[Nguyễn Văn Tuyên (tướng)|Nguyễn Văn Tuyên]] và [[Nguyễn Văn Tồn]].
:-Số lượng quân và dân phu: Dân phu: 5.000, binh đồn Uy Viễn (Trà Ôn): 500, dân Chân Lạp: 5.000. Tổng công: 10.500 người <ref>Ghi theo ''[[Gia Định thành thông chí]]'', mục "Vĩnh Tế Hà"</ref>.
 
[[Tháng 3]] ([[âm lịch]]) năm [[1820]], triều đình ra lệnh tạm dừng. Có thể vì vua [[Minh Mạng]] mới lên ngôi đang lo ổn định triều chính, vì loạn Sải Kế, và còn vì dịch bệnh (dịch tả) lúc bấy giờ đang hoành hành dữ dội...<ref> Theo Châu Hữu Hầu, trong thời gian kể từ [[tháng 3]] năm [[1820]] cho đến [[tháng 2]] năm [[1823]], triều Nguyễn định tái tục đào kênh cả thảy 3 lần, nhưng vì nhiều lý do đành phải hoãn (''Kỷ yếu'', tr. 56). Thông tin thêm: 'Toát yếu'' (bản dịch, tr. 148), chép: ''“[[Mùa thu]] qua [[mùa đông]] năm ấy ([[1820]]), khởi đầu từ [[Hà Tiên]] suốt đến [[Bắc thành]], số dân chết đến 206.835 người, đó là không kể người ngoại tịch”'' (bản dịch, tr. 148). Trong số người chết có thi hào [[Nguyễn Du]].</ref>.
*'''Giai đoạn 2:''' Từ [[tháng 2]] ([[âm lịch]]) năm [[1823]] đến [[tháng 4]] ([[âm lịch]]) năm [[1823]].
:-Chỉ huy trực tiếp là các quan: [[Thoại Ngọc Hầu|Nguyễn Văn Thoại]], [[Nguyễn Văn Tuyên (tướng)|Nguyễn Văn Tuyên]] và [[Trần Công Lại]].
:-Số lượng quân và dân phu: lấy ở các đồn Uy Viễn, Vĩnh Thanh và [[Định Tường]] hơn 39.000 dân và quân Việt. Quân và dân [[Chân Lạp]] hơn 16.000 người. Tổng cộng hơn 55.000 người, chia làm 3 phiên hoạt động <ref> Ghi theo Nguyễn Văn Hầu (tr. 193). Châu Hữu Hầu (''Kỷ yếu'', tr. 57) ghi khác: Binh và dân Việt: 35.000 người. Binh và dân Chân Lạp: 10.000 người. Tổng cộng: 45 ngàn người.</ref>
 
Đến [[tháng 4]] ([[âm lịch]]) năm [[1823]], vua [[Minh Mạng]] lại cho thôi đào kênh Vĩnh Tế, vì ''“nhơn đến mùa hạ, mà việc đào sông chỉ còn hơn 1.700 [[trượng]]”''<ref> Trích trong 'Toát yếu'' (bản dịch, tr. 159).</ref>.
 
*'''Giai đoạn 3''' (tức giai đoạn cuối): Từ [[tháng 2]] (âm lịch) năm [[1824]] đến [[tháng 5]] ([[âm lịch]]) năm [[1824]]. Sách ''Quốc triều sử toát yếu'', phần Chánh biên, chép: ''"Tháng 2, lại đào sông Vĩnh Tế. Năm ngoái còn 1.700 trượng, nay lại đào, đến tháng 5 mới xong, (cho) dựng bia làm ghi"'' <ref>Trích trong ''Toát yếu'', phần Chánh biên (bản dịch, tr. 163).</ref>
:-Chỉ huy trực tiếp: [[Thoại Ngọc Hầu|Nguyễn Văn Thoại]] và [[Trần Công Lại]].
:-Số lượng quân và dân phu của cả hai nước "lên tới 25.000 người" <ref> Ghi theo ''[[Đại Nam nhất thống chí]]'' (phần "An Giang tỉnh", mục "Sơn Xuyên") và Nguyễn Văn Hầu (tr.194). </ref>
 
==Một vài con số, được vinh danh==
Dòng 92:
:''"Vĩnh Tế Hà: Ở về phía tây đồn [[Châu Đốc]]. Năm [[Kỷ Mão]] ([[1819]]) niên hiệu [[Gia Long]] thứ 18, đo thẳng từ hào sau phía phải đồn Châu Đốc lên phía tây, qua láng (bưng) bùn Ca Âm đến Kỳ Thọ (tục gọi là Cây Kè) dài 44.412 [[tầm]] thành ra 205 [[dặm]] rưỡi (mỗi dặm bằng 1.700 thước nam), đặt tên là sông Vĩnh Tế...Ngày 15 [[tháng 12]] khởi công. Trừ đoạn láng bùn 4.075 tầm không đào đến, còn thật sự đào là 26.279 tầm, cân nhắc chỗ đào khó dễ, nhân lực nặng nhẹ, bắt đầu từ miệng hào đến láng bùn đất khô cứng có 7.575 tầm là phần việc của [[người Việt]], còn đất bùn nhão có 18.704 tầm là phần việc của dân Cao Miên (tức [[Chân Lạp]]). Đào bề ngang 15 tầm, sâu 6 thước ta, quan cấp mỗi tháng cho mỗi người là 6 quan tiền và 1 phương gạo. Đến ngày 15 [[tháng 3]] năm đầu thời [[Minh Mạng]] ([[1820]]) thì xong việc, cộng thành sông mới, bề dài 140 dặm, nối tiếp sông cũ đến cửa biển [[Hà Tiên]], tổng cộng dài 205 dặm rưỡi mà đường sông đi lại rất thông. Từ đó kế hoạch quốc gia về biên giới cũng như sự buôn bán của nhân dân cùng hưởng sự tiện lợi vô cùng"''<ref>''Gia Định thành thông chí'': [http://lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=4224&page=2]. Sách này ghi ngày xong việc là "15 [[tháng 3]] năm đầu thời [[Minh Mạng]]" ([[1820]]), là chưa chính xác. Bởi đó chỉ là xong giai đoạn đầu. Phải đào tiếp đến [[tháng 5]] ([[âm lịch]]) năm [[1824]] mới hoàn thành như ''Toát yếu'' (bản dịch, tr. 163) đã ghi.</ref>.
 
Chuyển đổi theo hệ đo lường ngày nay, thì kênh Vĩnh Tế có chiều dài là 87[[km]], 340<ref> ''Bách khoa toàn thư Việt Nam'', mục từ: “Kênh Vĩnh Tế” ghi chiều dài kênh tương đương 87 [[km]].</ref>, rộng 30 [[m]], độ sâu trung bình khoảng 2,55m. Tuy nhiên, trừ đoạn láng Náo Khẩu Ca Âm (7.650m) và chiều dài sông Giang Thành (42.500m) có sẵn, thì phần phải đào mới chỉ là 37km37&nbsp;km, 190m <ref> Theo Châu Hữu Hầu (''Kỷ yếu'', tr.5). Theo Nguyễn Văn Hầu (tr. 191), bề sâu có 6 thước (thước cũ dài khoảng 0,425m; tức sâu 2,55m) là khá cạn. Hiện nay nhờ nhiều lần nạo vét, nên đã sâu hơn nhiều.</ref> .
 
Ước tính trong 5 năm, các quan phụ trách đã phải huy động đến hơn 90.000 dân binh <ref> Con số này tính theo Nguyễn Văn Hầu, do nhiều đợt gọp lại, không phải ngần ấy người có mặt một lúc tại công trường.</ref>. Tổng số ngày công là 3.463.500, và khối lượng đất đào là: 2. 8 45.035 [[m³]] <ref> Theo Châu Hữu Hầu, ''Kỷ yếu'', tr. 65.</ref>.
 
Bởi công việc ở chốn “đồng không mông quạnh”, nhiều “sơn lam chướng khí”; việc ăn uống, thuốc men thảy đều thiếu thốn, khiến số người chết vì bệnh tật, kiệt sức, vì thú dữ như sấu, rắn rít... quá cao <ref>Sau, [[Thoại Ngọc Hầu]] cho gom nhặt hài cốt, cải táng nơi sơn lăng của mình tại chân [[Núi Sam]] và đặt tên là ''Nghĩa trủng''.</ref>. Và số người bỏ trốn rồi bỏ mạng cũng lắm, mặc dù luật lệ ràng buộc, nhiều tai ương, nhất là khi phải vượt qua [[sông Vàm Nao]]. Cho nên khi tin vui về đến [[Huế]], vua [[Minh Mạng]] rất đổi mãn nguyện vì nối được chí cha, liền sắc khen thưởng, dựng bia ở [[núi Sam]] và ở bờ kênh mới đào để ghi nhớ thành quả to lớn này <ref>Vua cho phép Thoại Ngọc Hầu lấy tên vợ là [[Châu Thị Tế]], dòng họ Châu vĩnh, đặt tên cho [[núi Sam]] là ''Vĩnh Tế Sơn'' và dòng kênh mới đào là ''Vĩnh Tế Hà''. Xem thêm phần '''bia Vĩnh Tế Sơn''' nơi trang [[núi Sam]].</ref>.
 
Năm [[Minh Mạng]] thứ 16 ([[1835]]), nhà vua cho đúc ''Cửu đỉnh'' để làm quốc bảo và tượng trưng cho sự miên viễn của hoàng gia, hình kênh Vĩnh Tế được chạm khắc trên ''Cao đỉnh''.
[[Hình: Kênh Vĩnh Tế trên Cao đỉnh.jpg|nhỏ|trái|250px| Kênh Vĩnh Tế được chạm khắc trên Cao đỉnh]].
 
==Lợi ích==
Dòng 110:
Đào xong, ''Đại Nam nhất thống chí'', phần ''An Giang tỉnh'', một lần nữa ghi nhận là ''Từ ấy đường sông lưu thông, từ kế hoạch trong nước, phòng giữ ngoài biên cho tới nhân dân mua bán đều được tiện lợi vô cùng.''
Đến bây giờ, kênh vẫn còn giá trị lớn về các mặt trị thủy, giao thông, thương mại, biên phòng, thể hiện sức lao động sáng tạo xây dựng đất nước của nhân dân Việt và chính sách coi trọng thủy lợi để phát triển nông nghiệp của triều Nguyễn <ref>[http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=15ECaWQ9MTE0MDEmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1zdGFydCZrZXl3b3JkPWs=&page=2 Theo ''Từ điển Bách Khoa Việt Nam'' (bản điện tử) [http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=15ECaWQ9MTE0MDEmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1zdGFydCZrZXl3b3JkPWs=&page=2]</ref>.
 
Nên ca dao có câu:
Dòng 127:
:''Quê cách trở, lấy ai hộ tống,''
:''Sống làm binh, thác chống quỷ ma.''
:''Than ôi, ai cũng người ta,''
:''Mà sao người lại thân ra thế này?''...
 
:...''Giờ ta vâng lệnh bệ rồng,''
:''Dời ngươi an táng nằm chung chốn nầy.''
:''Chọn đất tốt thi hài an ổn,''
:''Cảnh trời thanh vui nhộn cùng nhau.''
:''Hằng năm cúng tế dồi dào,''
:''Tràn trề lễ trọng dám nào để vơi...''<ref> Chép theo [[Nguyễn Văn Hầu]], ''Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang'', sách đã dẫn.</ref>
 
==Với người Khmer==
Dòng 143:
*[[Quốc sử quán triều Nguyễn]], ''Quốc triều sử toát yếu'', phần Chánh biên (bản dịch. Trong bài viết tắt là Toát yếu). Nhà xuất bản Văn học, 2002.
*[[Nguyễn Văn Hầu]], ''Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang''. Nhà xuất bản Hương Sen, [[Sài Gòn]], không ghi năm xuất bản.
*Nhiều người soạn, ''Địa chí An Giang'' (Tập 2), UBND tỉnh An Giang ấn hành, 2007.
*Nhiều tác giả, ''Kỷ yếu Hội thảo khoa học danh nhân Thoại Ngọc Hầu'' do *Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, UBND tỉnh [[An Giang]] và UBND [[thành phố Đà Nẵng]] phối hợp tổ chức và ấn hành năm 2009. Trong bài viết tắt là "Kỷ yếu".
 
Dòng 151:
{{Sông núi ở An Giang}}
{{kênh đào nổi tiếng}}
 
[[Thể loại:Sông tại Kiên Giang|Vĩnh Tế]]
[[Thể loại:Sông tại An Giang|Vĩnh Tế]]
[[Thể_loạiThể loại:Kênh đào]]
 
[[en:Vĩnh Tế Canal]]