Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam là một tổ chức tôn giáo - xã hội dựa trên nền tảng là Phật giáo nhưng độc lập với [[Giáo Hội Phật giáo Việt Nam]] đượchoạt nhà nước chính thức công nhận từ ngày 27/11/2007động với phương châm hành đạo chính “Tu học, -hành thiện, -ích nước -lợi dân” <ref>http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/162/0/1206/Khai_quat_ve_Tinh_do_Cu_si_Phat_hoi_Viet_Nam</ref>
 
Theo điều tra dân sô năm 2009 thì Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có khoảng 11.093 tín đồ tuy nhiên theo số liệu của [[Ban Tôn Giáo Chính Phủ]] thì cả nước có gần 1,5 triệu tín đồ thuộc về giáo hội cùng với 4.800 chức sắc, 350000 hội viên; gần 900 lương y, huấn viên y khoa, y sĩ, y sinh; trên 3.000 người làm công việc chế biến thuốc. Hiện diện ở 24 tỉnh, thành phố phía Nam từ [[Khánh Hoà]] tới [[Cà Mau]] <ref>http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/162/0/1206/Khai_quat_ve_Tinh_do_Cu_si_Phat_hoi_Viet_Nam</ref>
Dòng 17:
*Phương pháp kiến tánh: thể hiện nội dung nâng cao trình độ tu học, trình bày từng giai đoạn của quá trình tu học để đạt được “Kiến Tánh”. Người “Kiến Tánh” thì sẽ xa lìa được thiên kiến để thực hành trung đạo.
 
Về lễ tiết, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam hành lễ đơn giản nhưng thành kính. Hàng năm có hai ngày lễ lớn là lễ Phật đản (8 tháng 4 âm lịch) và lễ kỷ niệm ngày viên tịch của Đức Tông Sư Minh Trí (Ngày 23 tháng 8 âm lịch). Hàng tháng vào ngày mùng một và mười lăm âm lịch là những ngày lễ sóc vọng, làm lễ quy y cho tín đồ mới nhập đạo và thuyết giảng giáo lý. Ngoài ra giáo hội còn tổ chức những ngày lễ chung của đạo Phật như [[Tết Nguyên tiêu]], Lễ [[Vu-Lan]]...Theo qui định lễ Phật 24 lạy, lễ [[Quán Thế Âm]] 12 lạy, lễ Đức Tông Sư Minh Trí 6 lạy. <ref>httprefhttp://btgcpwww.govtinhdocusiphathoi.vn/Plusgioi-thieu/khai-quat-ve-tinh-do-cu-si-phat-hoi-viet-nam.26.aspx/vi/News/38/0/162/0/1206/Khai_quat_ve_Tinh_do_Cu_si_Phat_hoi_Viet_Nam </ref>
 
 
== Lịch sử giáo hội=
 
Người sáng lập và là giáo chủ Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam là [[Đức Tông Sư Minh Trí]] tên thật là Nguyễn Văn Bồng sinh năm Bính Tuất (1886) tại xã Tân Mỹ, tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc, là con thứ bảy của ông Nguyễn Văn Bình và bà Nguyễn Thị An<ref>http://www.tinhdocusiphathoi.vn/gioi-thieu/luoc-su-duc-tong-su-minh-tri.31.aspx </ref>. Từ thuở còn nhỏ, ông đã nghiên cứu các bài thuốc chữa bệnh cứu người và giác ngộ giáo lý nhà Phật. Với nền tảng sẵn có cộng với tư chất thông tuệ, ông đã mau chóng tinh thông nghề y, dược cổ truyền Việt Nam, chủ trương dùng u học dân tộc để giúp đời, hoàng dương Phật pháp. Đầu năm 1934, ông thành lập Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam và được giấy phép của chính phủ bảo hộ Pháp ngày 20-2-1934, lúc đó tên chính thức là Tịnh độ Cư sĩ Phật hội. Tông Sư Minh Trí chuyển tải giáo lý nhà Phật qua ngôn ngữ thơ ca, văn vần và kinh sách dưới dạng đối đáp ngắn gọn dễ hiểu, đồng thời hướng mọi người vào hoạt động phước thiện để giúp đỡ người nghèo khó. Hoạt động Phật pháp được gắn với từ thiện nhân đạo, nên số tín đồ ngày một đông.<ref>http://www.tinhdocusiphathoi.vn/gioi-thieu/luoc-su-truyen-giao-cua-giao-hoi-tinh-do.30.aspx</ref>
Chính phủ [[Việt Nam Cộng hoà]] xác định tính hợp pháp của Giáo hội bằng Nghị định số 83/MI/DAP ngày 22-12-1953 với tên gọi đầy đủ như hiện nay là Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam
Ngày
 
Giáo hội được nhà nước [[Việt Nam]] chính thức công nhận tư cách pháp nhân từ ngày 27/11/2007<refhttp://www.tinhdocusiphathoi.vn/gioi-thieu/khai-quat-ve-tinh-do-cu-si-phat-hoi-viet-nam.26.aspx </ref>
 
==Chú Thích==
<references/>