Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Văn Lương”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 58:
| chú thích =
}}
'''Lê Văn Lương''' ([[1912]]-[[1995]]) là một một chính trị gia Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ quan trọng trong [[Đảng Cộng sản Việt Nam]] như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hà Nội. Ông cũng làm một trong các thành viên ban lãnh đạo thực hiện [[Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam]]. Ông đã được Nhà nước [[Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam]] tặng [[Huân chương Sao Vàng]].
 
== Thân thế==
Dòng 64:
 
==Bắt đầu tham gia cách mạng==
Thời thiếu niên, ông theo học bậc [[Tú tài]] tại [[Trường Bưởi|trường Trung học Bưởi Hà Nội]]. Tại đây, ông có những liên hệ đầu tiên với [[Ngô Gia Tự]], [[Nguyễn Văn Cừ]], tham gia bãi khóa để tang [[Phan Châu Trinh]].

Năm [[1927]], ông gia nhập [[Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội]]. [[Tháng 6]] năm [[1929]], ông tham gia sinh hoạt với Chi bộ Cộng sản Bắc Kỳ. [[Tháng 1]] năm [[1930]], ông gia nhập [[Đông Dương Cộng sản Đảng]].
 
Năm 1931, ông được cử vào [[Sài Gòn]] hoạt động để gây dựng cơ sở. Tuy nhiên, tháng 3 năm [[1931]], ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt và giam tại [[Khám Lớn Sài Gòn]]. Năm 1933 ông bị kết án tử hình cùng với 7 đồng chí khác. Do nhân dân Pháp đấu tranh mạnh đòi bỏ án tử hình và trả tự do cho tù chính trị ở [[Đông Dương]], ông được giảm xuống chung thân và đày ra [[Côn Đảo]]. Trong tù, ông tiếp tục tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ nhà tù, cùng các đảng viên lãnh đạo đấu tranh chống lại chế độ nhà tù cho tới tháng 9 năm 1945.
 
==Trở thành một trong những lãnh đạo chủ chốt==
[[Cách mạng tháng Tám]] thành công, ông được đón về [[Nam Bộ]]. [[Tháng 10]] năm [[1945]], ông được cử làm Ủy viên dự khuyết [[Xứ ủy Nam Bộ]].

[[Tháng 1]] năm [[1946]], ông được điều ra Bắc giúp Tổng Bí thư [[Trường Chinh]] chỉ đạo báo ''Sự thật'' và [[Nhà xuất bản Sự thật]]. Sau ngày [[Chiến tranh Đông Dương|Toàn quốc kháng chiến]] ([[tháng 12]] năm [[1946]]) ông được cử làm Bí thư Văn phòng Thường vụ Trung ương.
 
Tháng 2 năm 1951, tại [[Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam II|Đại hội Đại biểu lần thứ II của Đảng]], ông được bầu vào [[Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá II]], [[Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị]], Trưởng ban tổ chức Trung ương.
Hàng 76 ⟶ 80:
Từ năm 1938, [[Trường Chinh]] cùng với [[Võ Nguyên Giáp]] viết chung một tiểu luận nhỏ có tựa đề "[[Vấn đề dân cày]]", xác định vấn đề cần phải thực hiện cuộc "[[Cải cách ruộng đất]]" để có thể tái phân phối lại quyền sử dụng đất đai. Đây cũng là một trong những mục tiêu mà [[Việt Minh]] đặt ra và từ đó có được sự ủng hộ của số đông nông dân, vốn chỉ chiếm giữ một tỷ lệ rất nhỏ đất đai. Chính vì vậy, ngày từ giữa năm [[1953]], khi [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] đã đạt được những ưu thế trên chiến trường, Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Ban Cải cách ruộng đất Trung ương, do [[Trường Chinh]] đích thân làm Trưởng Ban. Là một cộng sự thân tín của Tổng Bí thư, ông được phân công tham gia ban lãnh đạo Cải cách ruộng đất.
 
Hòa bình lập lại, ông làm Thứ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bấy giờ, dưới áp lực của các cố vấn Trung Quốc,cuối năm 1954, chiến dịch cải cách ruộng đất bắt đầu được đẩy mạnh và nhanh, với cường độ lớn, xuất hiện hiện tượng đấu tố tràn lan, mất kiểm soát, dẫn đến lạm quyền, trả thù cá nhân, thậm chí bùng phát bạo lực, dẫn đến nhiều cái chết oan ức.
 
Là một trong những thành viên của Ban Cải cách ruột đất, ông cũng có phần trách nhiệm. Vì vậy, tháng 9 năm 1956, trong Hội nghị Trung ương về vấn đề sửa sai cải cách ruộng đất, ông phải rút khỏi [[Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Bộ Chính trị]] và [[Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Ban Bí thư]], bị giáng xuống làm [[Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá II|Ủy viên dự khuyết Trung ương]].
Hàng 82 ⟶ 86:
 
==Trở lại vị trí lãnh đạo==
Tháng 7 năm 1957, khi [[Lê Duẩn]] được Trung ương Đảng rút ra Bắc để chủ trì công việc của Ban Bí thư. Là một cộng sự cũ của Lê Duẩn trong [[Xứ ủy Nam Bộ]], ông được Lê Duẩn rút về làm Phó trưởng ban Tổ chức Trung ương. Tháng 12 năm 1959, khi Lê Duẩn được cử làm Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng, ông cũng được phân công làm Chánh Văn phòng Trung ương Đảng.
 
Tháng 97 năm 19601957, tại [[Đại hộiDuẩn]] Đảngđược CộngTrung sảnương ViệtĐảng Namrút III|Đạira hộiBắc Đạiđể biểuchủ lầntrì thứcông IIIviệc của Đảng]],Ban ông đượcthư. bầu lạimột vàocộng [[Bansự Chấp hànhcủa Trung ươngDuẩn Đảngtrong Cộng[[Xứ sảnủy ViệtNam NamBộ]], ông được bầu vàoDuẩn [[Banđưa về thưlàm TrungPhó ươngtrưởng Đảngban CộngTổ sảnchức ViệtTrung Nam|Banương. Tháng thư]].12 Nămnăm 19731959, ôngkhi Lê Duẩn được phân côngcử làm TrưởngPhó banBan tổchuẩn chứcbị Trungvăn ươngkiện Đại hội toàn quốc lần thứ 2III của Đảng, thayông chocũng [[Lêđược Đứcphân Thọ]] sangcông làm TrưởngChánh BanVăn Miềnphòng NamTrung ương Đảng.
 
Tháng 9 năm 1960, tại [[Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam III|Đại hội Đại biểu lần thứ III của Đảng]], ông được bầu lại vào [[Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam]], được bầu vào [[Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Ban Bí thư]].
 
Năm 1973, ông được phân công làm Trưởng ban tổ chức Trung ương lần thứ 2, thay cho [[Lê Đức Thọ]] sang làm Trưởng Ban Miền Nam.
 
Tháng 12 năm 1976, tại [[Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV|Đại hội Đại biểu lần thứ IV của Đảng]], ông tái đắc cử [[Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam]], được bầu vào [[Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Bộ Chính trị]]. Đầu năm sau, ông được phân công tham gia [[Thành ủy Hà Nội]] và được bầu làm [[Bí thư Thành ủy Hà Nội]]. Ông giữ chức vụ này liên tiếp 3 nhiệm kỳ liên tiếp cho đến khi về hưu năm [[1986]]. Tuy nhiên, ông vẫn được Bộ Chính trị phân công tham gia tổng kết công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ.
Hàng 90 ⟶ 97:
Ông còn là đại biểu Quốc hội khóa VI và VII.
 
Ông mất ngày [[25 tháng 4]] năm [[1995]], hưởng thọ 83 tuổi.
==Tôn vinh==
Ông mất ngày [[25 tháng 4]] năm [[1995]], hưởng thọ 83 tuổi. Với gần 70 năm hoạt động cách mạng cùng nhiều công lao đóng góp, Ông được Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam tặng thưởng [[Huân chương Sao Vàng]], huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều huân chương cao quý khác.
Tên của ông được đặt cho con đường từ cầu Hòa Mục đến quận Thanh Xuân, đến đường Vành đai IV quận Hà đông chạy qua hàng loạt các dự án khu đô thị lớn như: Trung Hòa - Nhân Chính, khu đô thị mới Phùng Khoang, Vạn Phúc, Văn Khê, Dương Nội, An Hưng, Park City…
 
==Chú thích==