Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sakhalin”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 47:
Trong số các [[thổ dân]] tại Sakhalin thì [[người Ainu]] sinh sống ở nửa phía nam, người Orok sinh sống ở khu vực giữa, và người Nivkh sống ở nửa phía bắc.<ref>{{cite book |title=Worldmark Encyclopedia of Cultures and Daily Life |last=Gall |first=Timothy L. |year= 1998 |publisher=Gale Research Inc |location=Detroit, Michigan |isbn=0-7876-0552-2 |pages=2–3 |url= |accessdate=}}</ref> Họ được ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Hoa là các bộ lạc [[Tiên Ti]] và [[người Nanai|Hách Triết]], sinh sống dựa vào săn bắt cá.
 
==TrungLiên hệ với các triều đại Trung Quốc==
[[Đế quốc Mông Cổ]] đã tiến hành một sỗ nỗ lực nhằm chinh phục cư dân bản địa Sakhalin từ khoảng năm 1264. Theo [[Nguyên sử]], chính sử của [[nhà Nguyên]], 3000 đại quân đội Mông Cổ đã tiến đánh đảo Khố Hiệt, đánh bại ''Cốt Ngôi'' (骨嵬, ''Gǔwéi''), Sau đó, các trưởng lão ''Cốt Ngôi'' đã thực hiện ác chuyến viếng thăm để triều cống cho đồn quân sự của nhà Nguyên. Đến năm 1284, người Cốt Ngôi phản lại nhà Nguyên, đến năm 1285 thì nhà Nguyên thiết lập Đông Chinh nguyên soái phủ để tăng cường quản lý vùng hạ du sông Amur và đảo Sakhalin. Đến năm 1308, Cốt Ngôi vương Thiện Nô đã sai người đến thỉnh cầu quy hàng, nhận mỗi năm nộp da và lông hải cẩu, rái cá.<ref name="conquest"/><ref name="gao"/> [[Người Nivkh]] và [[người Orok]] đầu hàng trước, còn [[người Ainu]] khuất phục người Mông Cổ về sau đó.
 
Vào đầu thời [[nhà Minh]] (1368–1644), quan hệ triều cống được tái thiết lập. Năm 1412, nhà Minh chinh phục Khổ Ngột tại vùng ven biển bắc bộ của đảo thiết lập "Nang Cáp Nhi vệ", tại lưu vực [[sông Poronay]] ở trung bộ thiết lập "Ba La hà vệ", tại đông bộ của đảo thiết lập nên "Ngột Liệt Hà vệ", lệ thuộc vào [[Nô Nhĩ Can đô ti]].<ref name="conquest"/> Sau khi thiết lập các cơ sở của người Hán tại vùng sông Amur, tức giữa thế kỷ 15, người Ainu tại Sakhalin đã thường xuyên đến các tiền đồn do nhà Minh kiểm soát để cống nạp.<ref name="conquest">{{cite book |title=The Conquest of Ainu Lands: Ecology and Culture in Japanese Expansion, 1590–1800 |last=Walker |first=Brett L. |year=2006 |publisher=University of California Press |location=Berkeley, Calif. |isbn=0-520-24834-1 |page=133 |url=http://books.google.com/?id=D5iOcHB3h5AC&lpg=PA134&pg=PA133 |accessdate=June 16, 2010}}</ref> Dưới triều Minh, người Hán gọi hòn đảo này là Khổ Ngột ({{zh|c=苦兀|p=Kǔwù}}), và sau đó là Khố Hiệt ({{zh|c=庫頁|p=Kùyè}}). Có một số bằng chứng về việc một thái giám triều Minh tên là [[Diệc Thất Cáp]] (亦失哈) đã thị sát Sakhalin vào năm 1413 vào một các cuộc thám hiển của ông ở hạ du Amur, và ban tước hiệu của nhà Minh cho một tộc trưởng địa phương, ông cũng là người đã thiết lập nên Nô Nhĩ Can đô ti vào năm 1411.<ref name=tsai>{{cite book |title=Perpetual Happiness: The Ming Emperor Yongle |last=Tsai |first=Shih-Shan Henry |year= 2002 |origyear=2001 |publisher=University of Washington Press |location=Seattle, Wash |isbn= 0-295-98124-5 |pages=158–161 |url=http://books.google.com/?id=aU5hBMxNgWQC&lpg=PA159&pg=PA159 |accessdate=June 16, 2010}} Link is to partial text.</ref>Theo ''Thánh vũ kí'' ({{zh|c=聖武記}}) của [[Ngụy Nguyên]], , [[nhà Thanh|Hậu Kim]] đã cử 400 quân đến Sakhalin vào năm 1616 do quan tâm đến việc miền bắc Nhật Bản có các tiếp xúc với khu vực, song sau đó đã rờidời đi khi nhận thấy không có đe dọa từ hòn đảo. Sau khi thành lập nhà Thanh, triều đình quy thuộc đảo Sakhalin thuộc quyền quản lý của Ninh Cổ Tháp phó đô thống. Sau năm 1715, triều đình nhà Thanh chuyển quyền quản lý đảo sang Tam Tính phó đô thống. "Dân nhu" sống trên đảo mỗi năm lại đến vùng hạ du sông Amur để cống nạp da chồn cho triều đình nhà Thanh.<ref name="conquest"/>Đến giữa thế kỷ 18, các quan chức nhà Thanh đã ghi vào sổ hộ tịch 56 nhóm họ; trong đó, nhà sử liệu nhà Thanh lưu ý rằng sáu thị tộc và 148 hộ người Ainu và người Nivkh nằm dưới sự bảo trợ hành chính của nhà Thanh tại Sakhalin.<ref>{{cite book |title=The Conquest of Ainu Lands |last=Walker |first=Brett L. |pages=134–135 |url=http://books.google.com/?id=D5iOcHB3h5AC&lpg=PA134&pg=PA134#v=twopage&q |accessdate=June 16, 2010 |isbn=978-0-520-24834-2 |date=2006-02-21}}</ref>
 
===Người châu Âu và Nhật Bản thám hiểm===
[[File:Kitchen-21-Russia-Sahalin-2820.jpg|thumb|left|Sakhalin trên bản đồ năm 1773]]
Một điểm định cư của người Nhật đã được thiết lập tại [[Korsakov (thị trấn)|Ōtomari]] ở cực nam của Sakhalin vào năm 1679 trong một nỗ lực nhằm thuộc địa hóa hòn đảo. Những nhà bản đồ học đến từ [[gia tộc Matsumae]] đã tạo ra một bản đồ của hòn đảo và gọi nó là "Kita-Ezo" (Bắc Ezo, [[Ezo]] là tên cũ của các đảo ở phía bắc [[Honshu]]). [[Điều ước Nerchinsk]] năm 1689 giữa đế quốc Nga và nhà Thanh đã định [[dãy núi Stanovoy]] làm biên giới giữa hai bên, song đã không đề cập rõ ràng về hòn đảo. Tuy vậy, [[nhà Thanh]] vẫn xem hòn đảo là lãnh thổ của mình. Do nhà Thanh không có sự hiện diện quân sự trên đảo nên những người đến từ Nhật Bản đã cố định cư tại các đảo.
 
[[Martin Gerritz de Vries]] là người châu Âu đầu tiên được ghi nhận đã đến thăm Sakhalin, ông đã vẽ bản đồ [[mũi Patience]] và [[mũi Aniva]] trên bờ biển phía đông của đảo vào năm 1643. Tuy nhiên, vị hạm trưởng người Hà Lan đã không nhận thức được Sakhalin là một hòn đảo, và các bản đồ trong thế kỷ 17 thường thể hiện các điểm trên đảo, cũng như Hokkaido, là các phần của lục địa.
 
Là một phần trong chương trình vẽ bản đồ toàn quốc Thanh-Pháp, hoàng đế [[Khang Hi]] đã phái các linh mục [[Dòng Tên]] là [[Jean-Baptiste Régis]], [[Pierre Jartoux]], và [[Xavier Ehrenbert Fridelli]] cùng một nhóm người Mãn đến viếng thăm vùng hạ du [[sông Amur]] vào năm 1709,<ref>{{cite book |title=Description géographique, historique, chronologique, politique, et physique de l'empire de la Chine et de la Tartarie chinoise, enrichie des cartes générales et particulieres de ces pays, de la carte générale et des cartes particulieres du Thibet, & de la Corée; & ornée d'un grand nombre de figures & de vignettes gravées en tailledouce |volume=1 |last=Du Halde |first=Jean-Baptiste |authorlink=Jean-Baptiste Du Halde |year= 1736 |publisher=H. Scheurleer |location=La Haye |isbn=[none] |page= xxxviii |url=http://www.archive.org/stream/descriptiongog01duha#page/n41/mode/2up |accessdate=June 16, 2010}}</ref> và họ đã nghe thấy từ những người bản địa ở hạ du Amur về sự hiện diện của hòn đảo ngoài biển ở gần đó. Các linh mục dòng Tên đã ngeh được rằng những người dân trên đảo chăn nuôi [[tuần lộc]] giỏi. Họ báo cáo rằng những người ở lục địa sử dụng một số tên để gọi hòn đảo, song ''Saghalien anga bata'', nghĩa là "đảo ở cửa sông đen" là tên phổ biến nhất, trong khi người dân bản địa này hoàn toàn không biết về tên gọi "Huye" (có lẽ là "Khố Hiệt", 庫頁, Kùyè ) mà các linh mục nghe thấy ở Bắc Kinh.<ref>{{cite book |title=Description géographique, historique, chronologique, politique, et physique de l'empire de la Chine et de la Tartarie chinoise, enrichie des cartes générales et particulieres de ces pays, de la carte générale et des cartes particulieres du Thibet, & de la Corée; & ornée d'un grand nombre de figures & de vignettes gravées en tailledouce |volume=4 |last=Du Halde |first=Jean-Baptiste |authorlink=Jean-Baptiste Du Halde |year= 1736 |publisher=H. Scheurleer |location=La Haye |isbn=[none] |pages= 14–16 |url=http://www.archive.org/stream/descriptiongog04duha#page/n23/mode/2up |accessdate=June 16, 2010}} The people whose name the Jesuits recorded as ''Ke tcheng ta tse'' ("[[Hezhen]] Tatars") lived, according to the Jesuits, on the Amur below the mouth of the [[Dondon River]], and were related to the ''Yupi ta tse'' ("Fishskin Tatars") living on the Ussuri and the Amur upstream from the mouth of the Dondon. The two groups might thus be ancestral of the [[Ulch people|Ulch]] and [[Nani people|Nanai]] people known to latter ethnologists; or, the "Ke tcheng" might in fact be [[Nivkh people|Nivkhs]].</ref>
 
[[File:La-Perouse-Chart-of-Discoveries.jpg|thumb|La Perouse đã vẽ bản đồ hầu hết bờ biển tây nam của Sakhalin (hay "Tchoka",do họ nghe thấy người dân bản địa gọi như vậy) vào năm 1787]]
 
Tuy nhiên, các linh mục dòng Tên đã không có cơ hội để đích thân đến viếng thăm hòn đảo, và các thông tin không đầy đủ về địa lý của những người dân bản địa ở hạ lưu Amur và người Mãn đã từng đến hòn đảo không cho phép họ xác định đây là vùng đất từng đã được de Vries viếng thăm vào năm 1643. Do vậy, nhiều bản đồ trung thế kỷ 17 thể hiện Sakhalin với một hình dạng khá kỳ lạ, trong đó chỉ có một nửa phía bắc của hòn đảo (với mũi Patience), trong khi mũi Aniva do de Vries khám phá và "Mũi Đen" ([[Mũi Crillon]]) được xem là phần của đất liền.