Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cao Văn Khánh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 22:
Tháng 4 năm 1958, ông giữ chức Cục trưởng Cục tổ chức Kế hoạch, kiêm Cục trưởng Cục Nhà trường, thuộc Tổng cục Quân huấn <ref> Do Thiếu tướng [[Hoàng Văn Thái]] làm Tổng cục trưởng</ref>. Tháng 10 năm 1960, ông trở thành Hiệu trưởng [[trường Sĩ quan Lục quân]], quân hàm [[Đại tá]].
 
Tháng 3 năm 1964, ông được điều vào chức vụ Phó tư lệnh, kiêm Tham mưu trưởng [[Quân khu III3, Quân đội Nhân dân Việt Nam]], nhằm mục đích chuẩn bị cho chiến trường miền Nam.
 
Từ năm 1966 đến 1969, ông lần lượt giữ các chức vụ Phó tư lệnh của Chiến trường B3, Quân khu Trị Thiên, [[Quân khu IV]]. Đến tháng 5 năm 1970, ông được điều làm Tư lệnh Mặt trận 968 Hạ Lào, kiêm Phó tư lệnh Binh đoàn B70. Từ tháng 2 năm 1971, ông là Phó tư lệnh Mặt trận Đường 9 Nam Lào, rồi Tư lệnh Mặt trận B5, kiêm Phó tư lệnh [[Quân khu IV4, Quân đội Nhân dân Việt Nam]]. Từ tháng 12 năm 1972, ông trở thành Tư lệnh Quân khu Trị Thiên. Có thể nói, Cao Văn Khánh gắn bó với chiến trường miền Trung và Tây Nguyên suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ, liên tục với các chiến dịch lớn như Đắc Tô (1966), [[Khe Sanh]] (1968), Đường 9 (1971), Quảng Trị (1972), Tây Nguyên (1974).
 
Năm 1974, ông được điều về làm việc tại cơ quan [[Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam]] với chức vụ Phó [[Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam]] và được thăng quân hàm [[Thiếu tướng]] (1974), rồi [[Trung tướng]] (1980), với nhiệm vụ thường trực, nắm tình hình chiến sự, truyền đạt các mệnh lệnh của Tổng tư lệnh đến các cánh quân, các lực lượng trên chiến trường. Ông giữ chức vụ này liên tục cho đến ngày qua đời.