Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng Trọng Phu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 22:
Tổng đốc Hà Đông.
 
Sau đó ông kế vị cha làm Tổng đốc Hà Đông năm 1915, lúc đó Hà đông là tỉnh lớn và quan trọng ở Bắc Kỳ kề ngay sát [[Hà Nội]] ( trong mấy chục tỉnh miền bắc triều đình đặt chức Tổng đốc ở các tỉnh Hà Đông, Nam Định, Bắc Ninh, Thái bình, Hải Dương, còn các tỉnh khác chỉ đặt chức Tuần phủ). Phạm vi của tỉnh Hà đông bao gồm Thị xã Hà đông, các phủ [[Hoài Đức]], [[Ứng Hòa]], [[Mỹ Đức]], [[Thường Tín]], huyện Hoàn Long. So về diện tích thì tỉnh Hà đông rộng gấp nhiều lần thành phố Hà nội.
 
Thời gian ông làm Tổng đốc Hà đông trong hơn 20 năm. Trong gia đình ông có 3 người làm Tổng đốc Hà đông thì ông là người nổi tiếng nhất.
Bên cạnh những hoạt động đảm bảo trị an trong địa phận như những quan cai trị khác trong chế độ thuộc địa nửa phong kiến lúc đó, ông là người có tinh thần dân tộc, cùng với anh trai Hoàng Mạnh Trí (Tổng đốc [[Nam Định]]) đều âm thầm hỗ trợ phong[[Phong trào Đông Du]], làm lơ cho hai trung tâm tuyển chọn người đi Đông Du ở Hà Đông và Nam Định hoạt động.
 
Phát triển làng nghề thủ công.
 
Ông đã đóng góp nhiều công sức phát triển các làng nghề, dân sinh xã hội của tỉnh Hà đông. Ông đã khôi phục các làng nghề cho tỉnh Hà Đông vốn đã nổi tiếng với "the La, lụa Vạn, chồi Phùng". Ông viết cuốn Nghề truyền thống Hà đông mô tả chi tiết các làng nghề truyền thống của tỉnh Hà đông. Ông thành lập Hội Tiểu canh nông công nghệ Hà đông. Ông cử các phái đoàn mang sản phẩm thủ công (the, lụa, mây tre đan) tham dự triển lãm tại thủ đô nước Pháp.
Ông quan tâm phát triển làng nghề lụa Vạn Phúc trở thành điểm sáng về kinh tế. Nhiều lần chính ông đã chu cấp tiền cho người Vạn Phúc mang lụa đi tham gia triển lãm ở Paris. Số người đến Vạn Phúc làm thuê ngày càng nhiều.
Ông chọn các nghệ nhân đưa sang Trung quốc học nghề lụa tơ tằm, sang Nhật học sơn mài, rồi cả nghề mộc nghề bạc, mở cả bảo tàng mỹ nghệ cho các nghệ nhân La Cả , La Khê.
Về sau vì muốn có người nhà tiếp tục phát triển các ngành nghề thủ công tại Hà đông nên ông đã đề nghị với triều đình Huế đưa con rể là [[Hồ Đắc Điềm]] lúc đó đang là Án sát tỉnh [[Bắc Ninh]] về làm Tổng đốc vào năm 1941.
 
Lập ấp Hà đông tại Đà Lạt.
 
Năm 1937 khi ông [[Trần Văn Lý]], Quản đạo [[Đà Lạt]] đề xuất di dân lập ấp tại Đà Lạt, ông đồng ý với việc trên và giao cho Thương tá canh nông Hà Đông Lê Văn Định (sau này ông Định giữ chức Chánh án Tòa án hỗn hợp Đà Lạt) thực hiện. Năm 1938 nhóm cư dân gốc Hà Đông đầu tiên gồm 35 người thuộc các làng chuyên trồng hoa Tây Tựu, Quảng Bá, Nghi Tàm, Ngọc Hà, Xuân Tảo, Vạn Phúc ven Hồ Tây được đưa lên tàu hỏa vào Đà lạt. Nhóm cư dân này hầu hết là những nông dân khỏe mạnh, quen nghề làm vườn, được huấn luyện thêm phương thức canh tác của châu Âu, được hỗ trợ vay tiền của Quỹ tương trợ. Ấp được đặt tên là Hà đông để tưởng nhớ quê cũ. Diện tích đất khai phá ban đầu ở Ấp Hà Đông chỉ từ vài chục ha lên hàng trăm ha, bà con vừa xây dựng nhà cửa vừa trồng trọt các loại rau hoa mang từ Hà Nội vào. Từ năm 1941, ấp Hà Đông bắt đầu làm ăn phát đạt nhờ nghề trồng hoa và rau cải nầy. Cuối năm 1941, có tất cả 28 gia đình ở ấp Hà Đông, tổng số 100 nhân khẩu. Việc thành lập ấp Hà đông tạo tiền đề cho hoạt động sản xuất trồng rau và hoa của Đà Lạt sau này.
 
Năm 1937 ông từ nhiệm Tổng đốc Hà đông, người kế nhiệm là ông Vi Văn Định nguyên Tổng đốc Thái bình.