Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Khởi nghĩa Bạch Liên giáo”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “'''Khởi nghĩa Bạch Liên giáo ở (các tỉnh) Xuyên, Sở''' (chữ Hán: 川楚白莲教起义, Xuyên Sở Bạch Liên giáo khởi nghĩa), thường…”
 
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 11:
Năm Càn Long thứ 30 (1795), giảo thủ các nơi ở Hồ Bắc bí mật bàn bạc vào '''ngày Thìn tháng Thìn năm Thìn''' (ngày 10 tháng 3 năm sau) cùng khởi sự, cho phép giáo đồ chuẩn bị vũ khí và đạn dược. Việc này bị phát giác, chính quyền nhà Thanh mượn danh nghĩa diệt trừ Tà giáo, một lượng lớn giáo thủ, giáo đồ bị bắt và ngộ hại, trong khi quan viên địa phương cũng mượn danh nghĩa tìm bắt Tà giáo, nhũng nhiễu dân chúng: ''không kể giáo đồ hay không phải giáo đồ, mà xem nộp tiền hay không nộp tiền”, “không thỏa ham muốn, lập tức vu là Tà giáo mà trị tội''. Giáo thủ các nơi bèn lấy “Quan bức dân phản” làm khẩu hiệu, kêu gọi giáo đồ tiến hành phản kháng <ref>[[Thanh Nhân Tông|Đại Thanh Nhân tông]] Duệ hoàng đế thánh huấn, quyển 98, Tĩnh gian quĩ</ref>.
 
Ngày 7 tháng giêng năm Gia Khánh đầu tiên (15/2/1796), bọn thủ lĩnh Trương Chánh Mô, Niếp Kiệt Nhân ở một dải [[Nghi Đô]], [[Chi Giang]] thuộc Hồ Bắc bị quan phủ lùng bắt gắt gao, bèn dựng cờ khởi nghĩa. Giáo đồ các huyện [[Trường Dương]], [[Lai Phượng]], [[Đương Dương]], [[Trúc Sơn]] nối nhau hưởng ứng. Ngày 10 tháng 3, dưới sự lãnh đạo của bọn [[Vương Thông Nhi]], [[Diêu Chi Phú]], giáo đồ khu vực [[Tương Dương]] nổi dậy. Các lộ quân khởi nghĩa không hỗ trợ lẫn nhau, đều tự tiến hành tác chiến, những nơi chiếm cứ sơn trại hoặc huyện thành, phần nhiều bị quân Thanh đánh phá. Chỉ có quân khởi nghĩa Tương Dương thực hiện sách lược tác chiến lưu động “đi''đi không gói ghém lương thực, dừng không giăng trải màn chiếu, đồng đảng không có điều lệnh, tàn hại đến mấy ngàn dặm”dặm'' <ref name="H">Hạ Trường Linh tập, Hoàng triều kinh thế văn biên, quyển 89, Binh chánh</ref>, lực lượng phát triển rất nhanh, trở thành chủ lực của quân khởi nghĩa Hồ Bắc. Dưới ảnh hưởng của khởi nghĩa Bạch Liên giáo Hồ Bắc, giáo đồ Bạch Liên ở các nơi Tứ Xuyên nhao nhao hưởng ứng. Tháng 9, bọn [[Đạt Châu]] giáo thủ Từ Thiêm Đức, Đông Hương (nay là [[Tuyên Hán]], Tứ Xuyên) giáo thủ Vương Tam Hòe, Lãnh Thiên Lộc đều dựng cờ khởi nghĩa.
 
Đầu năm thứ 2 (1797), quân khởi nghĩa Tương Dương triển khai chiến thuật tác chiến lưu động với quy mô lớn hơn, chuyển đến chiến đấu ở Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Hà Nam, Thiểm Tây, sau đó chia làm 3 đạo tiến vào Tứ Xuyên, quân Thanh chỉ biết tất tả đuổi theo ở phía sau. Tháng 7, quân khởi nghĩa Tứ Xuyên bị quân Thanh vây khốn, quân khởi nghĩa Tương Dương đến kịp giải vây, tại Đông Hương cùng quân khởi nghĩa Tứ Xuyên hội sư. Các lộ quân khởi nghĩa quân đặt ra phân hiệu xanh, vàng, lam, trắng, thiết lập các chức vụ Chưởng quỹ, Nguyên soái, Tiên phong, Tổng binh,… nhưng không thể liên kết thành một khối thống nhất, mà các cánh nghĩa quân vẫn tự tiến hành tác chiến, hành động phân tán<ref name="H"/>. Tổng binh [[Đức Lăng Thái]] đề xuất lên triều đình xin thực hiện biện pháp xây dựng đồn bảo nhằm khống chế nghĩa quân, “bọn''bọn thân sĩ Lương Hữu Cốc dựng bảo, tổ chức đoàn luyện, (nên) giặc không thể phạm, bảo hộ hơn 10 vạn người ở hương, làng”làng'' <ref>Đức Lăng Thái: Trù lệnh dân trúc bảo ngự tặc sớ</ref>. Do các cánh nghĩa quân hoạt động không thống nhất, lại không có cách gì giúp đỡ lẫn nhau, nên bị các đạo quân triều đình của [[Thiểm Tây|Thiểm]] [[Cam Túc|Cam]] Tổng đốc [[Dương Ngộ Xuân]], Tổng binh [[Đức Lăng Thái]], [[Thắng Bảo]] đánh phá.
 
Tháng 3 năm thứ 3 (1798), quân khởi nghĩa Tương Dương tại [[Vân Tây|Vân Tây, Hồ Bắc]] bị quân Thanh bao vây, thủ lĩnh Vương Thông Nhi, Diêu Chi Phú nhảy khỏi vách núi tự sát, tàn dư vẫn tiếp tục đấu tranh.
 
Quân khởi nghĩa Tứ Xuyên cũng chịu tổn thất nặng nề. Nhưng từ tháng 3 năm thứ 5 (1800) về trước lại là giai đoạn phát triển lớn mạnh nhất của nghĩa quân, được nhân dân các nơi giúp đỡ, đến nơi nào cũng “có''có nhà cửa để nghỉ ngơi, có thức ăn áo mặc, đạn dược để tiếp tế”tế''<ref name="H"/> nhiều lần đánh bại quan quân. Từ sau chiến dịch gò Mã Đề (nay là thôn Mã Đề Cương, hương Tân hưngHưng, thị xã [[Giang Du]], thành phố [[Miên Dương]], Tứ Xuyên), nghĩa quân bắt đầu tụt dốc, quân số từ chục vạn giảm xuống còn vài vạn, phần nhiều tướng lĩnh trọng yếu nối nhau hi sinh. Sách lược “kiên'''kiên bích thanh dã”dã''' (tạm dịch: ''tường chắc, vườnđồng trống'') cùng “trại'''trại bảo đoàn luyện''' ”cũngcũng dần phát huy tác dụng. Thông quá việc xây dựng trại bảo, rồi thôn xóm, lệnh cho trăm họ dời nhà vào trong, đưa tất cả lương thảo của dân gianchúng vào đấy, lại huấn luyện tráng đinh, tiến hành phòng thủ; từ đó cắt đứt mối liên hệ giữa nghĩa quân với nhân dân, khiến cho nghĩa quân hết cách tiếp cận nguổn bổ sung nhân lực và vật lực, ngày càng kiệt quệ. Từ nửa cuối năm thứ 6 (1801), nghĩa quân hoạt động chủ yếu trong phạm vi giáp ranh của 3 tỉnh Xuyên, Sở, Thiểm, chuyển sang chiến đấu trong vùng rừng già [[Vạn Sơn]], lực lượng không quá 24000 người, mà quân Thanh vây tiễu ngày càng gắt gao. Nghĩa quân kiên trì chiến đấu, đến tháng 9 năm thứ 9 (1804), đành chấp nhận thất bại.
 
==Ảnh hưởng==
Nhà Thanh đã điều động mấy chục vạn quân từ 16 tỉnh để trấn áp cuộc nổi dậy, hơn 10 võ quan cao cấp như Đề đốc, Tổng binh và hơn 400 võ quan trung cấp từ Phó tướng trở xuống tử trận. Theo thống kê, triều đình nhập siêu hơn 20000 lạng bạc trắng, tương thu nhập 5 năm tài chánh của quốc khố, khiến cho quốc khố trống rỗng <ref>Trịnh Thiên Đĩnh, Thanh sử, tranggiản 520thuật</ref>. Trong c''hiếnchiến dịch Xuyên Sở, xét chư tướng tụ tập ăn uống, vốn thâm hụt một khoảng lớn, như cua cá hải sản 30, 40 loại, còn chi phí khao thưởng cho cấp dưới thì không tính nổi. Phàm những nơi màu mỡ, các chợ búa đầy ngọc ngà gấm lụa thì việc biếu xén, hối lộ, đánh bạc,… phung phí như bùn đất'' <ref>Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, quyển 11, Vũ sự dư ký</ref>. Bởi sự hủ bại không thể cứu vãn của các lực lương chính quy [[Bát Kỳ]], [[Lục Doanh]], nhà Thanh buộc phải dựa vào đoàn luyện địa phương để trấn áp cuộc khởi nghĩa.
 
Loạn Xuyên Sở giáo nổ ra đã đẩy nhà Thanh đi bước đầu tiên trên con đường suy bại. Không lâu sau, các tỉnh [[Trực Lệ]], Hà Nam, Sơn Đông… phát sinh biến cố Quý Dậu dưới sự lãnh đạo của Thiên Lý giáo.
Dòng 29:
* [[Hạ Trường Linh]], ''Hoàng triều kinh thế văn biên''
* [[Đức Lăng Thái]], ''Trù lệnh dân trúc bảo ngự tặc sớ''
* [[Trịnh Thiên Đĩnh]], ''Thanh sử giản thuật''
* [[Trịnh Thiên Đĩnh]], ''Thanh sử tham vi''
* [[Ngụy Nguyên]], [[Thánh vũ ký]]