Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Xuân Nguyên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Nguyễn Xuân Nguyên''' ([[1907]]-[[1975]]) là một giáo sư y khoa người Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng [[Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I]] năm 1996 cho các đóng góp xuất sắc trong ngành nhãn khoa Việt Nam. Năm 1946 ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành phố Hải phòng ngay trước cuộc kháng chiến chống Pháp.
 
==Thân thế==
 
===Tốt nghiệp y khoa Đông Dương===
Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên sinh ngày [[21 tháng 1]] năm [[1907]] tại xã [[Quảng Giao]], huyện [[Quảng Xương]], tỉnh [[Thanh Hóa]]. Thời niên thiếu ông theo gia đình học tiểu học ở [[Hà Tĩnh]], học trung học ở [[Vinh]], [[Nghệ An]]. Lớn lên, ông ra [[Hà Nội]] học [[trường Bưởi]]. Sau khi đỗ tú tài, năm 1929 ông thi vào học ở [[trường thuốc Đông Dương]] và tốt nghiệp bác sĩ y khoa năm 1935 với luận án ''Góp phần nghiên cứu về bệnh nhiễm khuẩn Malléomyces ở Đông Dương''.
 
Trong thời gian học ở trường thuốc, ông tỏ ra là một sinh viên thông minh, hiếu học, được thầy và bạn kính nể nên khi bước sang năm học thứ năm, ông được tuyển chọn làm trợ lý giải phẫu và khi tốt nghiệp bác sĩ, ông được trường giữ lại làm hướng dẫn viên về bệnh học lâm sàng nhãn khoa (1936-1938) rồi Chủ nhiệm khoa mắt, Chủ nhiệm khoa ngoại (1939-1943), sau đó ông được cử làm giảng viên trường y kiêm giámGiám đốc nhà thương chữa mắt ở dốc [[Hàng Gà]] gần [[chợ Hôm]] (Đức Viên).
 
===Đối phó bệnh đau mắt hột===
Dòng 12:
Trước tình hình đó, ông đã tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến công tác phòng và chống bệnh mắt hột. Chỉ tính từ năm 1935 đến 1945 ông đã công bố 48 công trình nghiên cứu khoa học trên các tạp chí trong và ngoài nước. Do có cống hiến cho khoa học, ông được mời tham dự vào [[Hội Y học nhiệt đới]] (1938), [[Hội Y học Đông Dương]] (1935-1945), [[Trường Viễn Đông bác cổ]] và [[Hội Nhân chủng học]] (1940-1945).
 
===SauTham Cáchgia mạngChính thángquyền TámCách mạng===
 
Sau [[Cách mạng tháng 8]] năm 1945, tháng 10 năm 1945, ông được cử làm Giám đốc Sở Y tế phụ trách miền duyên hải [[Bắc Bộ]].
 
Đầu năm 1946, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành phố Hải Phòng. Ông cùng với các ông [[Lê Quang Đạo]], Bí thư Thành ủy kiêm Chủ nhiệm Việt Minh; [[Vũ Quốc Uy]], Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính, điều hành tốt công việc trong tình thế khó khăn phức tạp. Tháng 10.1946 khi Bác Hồ dự hội nghị Fontainebleau (Pháp) trở về bằng đường biển, Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên với tư cách Chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố Hải Phòng đã cùng với đại diện Quốc hội, đại diện Chính phủ ra Hạ Long đón đoàn về Hải Phòng. Sau đó ông tham gia Ủy ban Kháng chiến hành chính [[Hải Phòng]], kiêm Phó Giám đốc Quân dân y Chiến khu 3.
 
Sau đó ông tham gia Ủy ban Kháng chiến hành chính [[Hải Phòng]], kiêm Phó Giám đốc Quân dân y Chiến khu 3.
Năm 1948-1952, ông là Ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chính [[Liên khu]] 3, kiêm Giám đốc Sở Y tế Liên khu 3. Năm 1952 ông là một trong những cán bộ giảng dạy nòng cốt của trường y sĩ Việt Nam liên khu 3-4 ở [[Thanh Hóa]]. Khi trường này sáp nhập với trường Đại học Y khoa ở [[Việt Bắc]], ông vẫn tiếp tục tham gia giảng dạy bộ môn mắt.
 
Năm 1948-1952, ông là Ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chính [[Liên khu]] 3, kiêm Giám đốc Sở Y tế Liên khu 3.
===Sau 1954===
 
Sau năm 1954, ông là một trong 9 cán bộ giảng dạy đầu tiên của trường [[Đại học Y dược Hà Nội]] được nhà nước [[Việt Nam Dân chủ cộng hòa]] phong hàm giáo sư và được giao nhiệm vụ chủ nhiệm bộ môn nhãn khoa Trường đại học Y dược Hà Nội kiêm giám đốc [[Bệnh viện Mắt]] rồi viện trưởng [[Viện Mắt]].
Năm 1948-1952, ông là Ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chính [[Liên khu]] 3, kiêm Giám đốc Sở Y tế Liên khu 3. Năm 1952 ông là một trong những cán bộ giảng dạy nòng cốt của trường y sĩ Việt Nam liên khu 3-4 ở [[Thanh Hóa]]. Khi trường này sáp nhập với trường Đại học Y khoa ở [[Việt Bắc]], ông vẫn tiếp tục tham gia giảng dạy bộ môn mắt.
 
===Hoạt động sau 1954===
Sau năm 1954, ông là một trong 9 cán bộ giảng dạy đầu tiên của trường [[Đại học Y dược Hà Nội]] được nhà nước [[Việt Nam Dân chủ cộng hòa]] phong hàm giáoGiáo sư và được giao nhiệm vụ chủ nhiệm bộ môn nhãn khoa Trường đại học Y dược Hà Nội kiêm giámGiám đốc [[Bệnh viện Mắt]] rồi việnViện trưởng [[Viện Mắt]].
 
Từ năm 1960 trở đi, ông được bầu vào quốc hội và được cử làm Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Phó chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhãn khoa và là Ủy viên thường trực của [[Đảng Xã hội Việt Nam]].
Hàng 34 ⟶ 39:
 
Giải thưởng Hồ Chí Minh được trao cho các công trình nghiên cứu bệnh mắt hột và bệnh mù loà ở Việt Nam của ông trong suốt giai đoạn 1938-1975.
 
==Phong tặng và Tôn vinh==
*[[Giải thưởng Hồ Chí Minh]] (truy tặng năm 1996 cho các công trình nghiên cứu khoa học về phòng chống bệnh mắt hột và các bệnh mù lòa).
Hàng 58 ⟶ 64:
 
==Gia đình==
 
Con trai của ông là Tiến sĩ [[Nguyễn Xuân Chuẩn]] ([[1943]]-[[2007]]), nguyên Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, đồng tác giả của Từ điển Việt - Tiệp.
 
Hàng 73 ⟶ 80:
[[Thể_loại:Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hải Phòng]]
[[Thể_loại:Đại biểu Quốc hội Việt Nam]]
[[Thể_loại:Quan chức Quốc hội Việt Nam]]
[[Thể_loại:Đảng Xã hội Việt Nam]]
[[Thể_loại:Giải thưởng Hồ Chí Minh]]