Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận Kleidion”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n r2.7.2+) (Bot: Thêm sh:Belasička bitka |
|||
Dòng 33:
Năm 968, Bun-ga-ri bị xâm lược từ phía bắc bởi Hoàng tử Kiev [[Sviatoslav I của Kiev | Sviatoslav]]. Đế chế Bungaria, mợt thời đe dọa sự tồn tại của Đông La Mã dưới sự trị vì của [[Simeon I của Bungaria | Simeon]] đã bị suy sụp nghiêm trọng. Quân Nga Kiev đã bị người Đông La Mã đánh bại, và thủ đô [[Preslav]] của Bulgaria cũng thất thủ trước các đợt tấn công của Đông La Mã năm 971. Sa Hoàng Bungaria [[Boris II của Bungaria | Boris II]] đã buộc phải từ bỏ danh hiệu "Hoàng đế" ở Constantinopolis và giao nộp các tỉnh phía đông Bulgaria cho triều đình Đông La Mã. Các nghị sĩ và tướng lĩnh ở Constantinopolis đã tin rằng hồi kết của một Bulgaria độc lập đã đến, nhưng các vùng đất phía tây Bulgaria vẫn dưới sự lãnh đạo của anh em nhà [[Comitopuli]] bao gồm [[David của Bungaria |David]], [[Moses của Bungaria |Moses]], [[Aron của Bulgaria|Aaron]] và Samuel đã tiến hành kháng chiến chống Đông La Mã.
Khi [[hoàng đế Đông La Mã]] [[Basileios II]] ngồi lên ngai vàng vào năm 976, ông đã coi việc thôn tính Bulgaria là tham vọng lớn nhất của mình. Mục tiêu của ông là các tỉnh miền tây Bulgaria dưới sự cai trị của Sa hoàng [[Samuel của Bulgaria]]. Chiến dịch đầu tiên của Basileios II được coi là một thảm họa, hoàng đế may mắn thoát chết khi quân Bulgaria tàn sát quân đội Đông La Mã ở [[Trận Cổng Traja|Cổng Trajan]] năm 986. Trong vòng mười lăm năm tiếp theo, khi Basileos đang bù đầu bận tâm đối phó với các cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của ông ở Anatolia và mối đe dọa từ [[nhà Fatimid|Fatimid]] ở phía Đông, Samuel đã giành lại hầu hết đất đai đã mất của Bungaria và tiến hành một loạt các chiến dịch vào lãnh thổ của đối phương. Tuy nhiên, cuộc xâm lược vào miền Nam [[Hy Lạp]], mà xa nhất là tới được [[Corinth]] đã dẫn đến một thất bại lớn trong [[trận
=== Sự chuẩn bị của hai đế quốc ===
|