Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đỗ Lạc Chu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
Tháng 8 năm Hiếu Xương đầu tiên (525), Đỗ Lạc Chu ở Thượng Cốc<ref> Nay là [[Hoài Lai]], [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]]</ref> tụ chúng khởi nghĩa phản kháng nhà Bắc Ngụy, đặt niên hiệu là Chân Vương. Nghĩa quân đánh hạ các quận, huyện gần đó. Nghĩa quân vây đánh Yến Châu <ref>Châu trị nay là [[Trác Lộc]], Hà Bắc</ref> thứ sử Thôi Bỉnh.
 
Tháng 9, triều đình sai U Châu <ref>Châu trị nay là [[Bắc Kinh]]</ref> thứ sử [[Thường Cảnh]] làm Hành đài, cùng U Châu đô đốc Nguyên Đàm cùng lĩnh quân chinh thảo nghĩa quân. Bấy giờ, Thường Cảnh bố trí quan binh ở ven đường từ Lư Long tái <ref>Nay là khoảng giữa [[Hỷ Phong Khẩu]] đến [[Lãnh Khẩu]], phía bắc [[Thiên An]], Hà Bắc</ref> đến Quân Đô quan <ref>Nay là phía bắc [[Cư Dung quan]], Hà Bắc</ref>, chiếm lĩnh nơi hiểm yếu, ngăn trở nghĩa quân đánh xuống phía nam.
 
Tháng giêng năm Hiếu Xương thứ 2 (526), khoảng 2 vạn quan quân đóng An Châu <ref>Châu trị nay là [[Long Hóa]], Hà Bắc</ref> phản Ngụy, hưởng ứng Đỗ Lạc Chu, gia nhập nghĩa quân. Đỗ Lạc Chu đưa nghĩa quân đến cùng họ hội họp, Thường Cảnh phái quân ở Quân Đô quan chặn đón, bị nghĩa quân đánh bại.