Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Tây Bắc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Saruman (thảo luận | đóng góp)
Itolemma (thảo luận | đóng góp)
Thêm thông tin thiếu nguồn
Dòng 19:
|commander1={{flagicon|Pháp}} [[Raoul Salan]]
|commander2={{flagicon|Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|1945}}[[Võ Nguyên Giáp]]<br />{{flagicon|Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|1945}}[[Hoàng Văn Thái]]
|casualties1='''Hướng Tây Bắc:''' 4 tiểu đoàn và 28 đại đội, tổng cộng 16.005029 chết hoặclính bị thương, 5.024 bị bắt<br>'''Hướng Phú Thọ:''' 1.711 chết hoặc bị thương, 173 bịtiêu bắtdiệt
|casualties2= KhoảngKhông 6.000 thương vong
}}
{{Chiến tranh Việt-Pháp (1945-1954)}}
Dòng 26:
 
==Hoàn cảnh==
Sau khi mở các chiến dịch ở [[đồng bằng Bắc Bộ]] năm 1951 không thành công, rút kinh nghiệm qua các chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam kể từ sau [[Chiến dịch Biên giới]], phân tích tình hình trên chiến trường, đánh giá khách quan hơn về tương quan lực lượng, [[Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Trung ương Đảng Lao động Việt Nam]] và [[Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam]] đã nhận định phương hướng chiến lược có lợi lúc này là chiến trường rừng núi. Vì vậy, tháng 9 năm 1952, Trung ương Đảng chủ trương: ''"Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, tìm nơi sơ hở của dịch mà đánh và hướng tiến công chiến dịch lên Tây Bắc.”''<ref>Lê Mậu Hãn (chủ biên), NXB: 2006, Đại cương lịch sử Việt Nam - tập 3; NXB: Giáo dục. </ref>
Năm 1952, tình hình nước Pháp rất rối ren. Chỉ trong tháng 2 và tháng 3-1952, nội các Pháp đổ liên tiếp 3 lần. Tình hình chiến trường Đông Dương vẫn là vấn đề nan giải đối với Chính phủ lâm thời. Tờ tuần báo Hành động (L’Action) số ra ngày 2-4-1952, ký giả người Pháp [[Henri Clau]] viết: ''“Dư luận lên án Chính phủ Pháp đang theo đuổi cuộc chiến ở Đông Dương, nhân dân Pháp bất bình vì tình trạng bắt lính kéo dài”''.
 
Tại Đông Dương, [[Raoul Salan]] lên làm Tổng tư lệnh. Trên chiến trường Việt Nam, thực dân Pháp chủ trương thực hiện chiến lược phòng ngự, ráo riết bình định các vùng tạm chiếm. Tổng chỉ huy Salan điện về chính quốc xin viện trợ về lực lượng và tài chính nhưng không được chấp nhận vì ngân sách đã cạn.
 
Sau khi mở các chiến dịch ở [[đồng bằng Bắc Bộ]] năm 1951 không thành công, rút kinh nghiệm qua các chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam kể từ sau [[Chiến dịch Biên giới]], phân tích tình hình trên chiến trường, đánh giá khách quan hơn về tương quan lực lượng, [[Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Trung ương Đảng Lao động Việt Nam]] và [[Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam]] đã nhận định phương hướng chiến lược có lợi lúc này là chiến trường rừng núi.
 
Vì vậy, ngày 17 tháng 7 năm 1952, Trung ương Đảng quyết định thành lập khu Tây Bắc, gồm bốn tỉnh: [[Lai Châu]], [[Sơn La]], [[Lào Cai]], [[Yên Bái]], rộng 44.300 km2, dân số 440.000 người. Tây Bắc là một vùng rừng núi trùng điệp, nhiều dãy núi cao hơn 1000 mét. Đây là một vị trí chiến lược quan trọng đối với cách mạng ở Đông Dương. Tháng 9 năm 1952, Trung ương Đảng chủ trương: ''"Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, tìm nơi sơ hở của dịch mà đánh và hướng tiến công chiến dịch lên Tây Bắc.”''<ref>Lê Mậu Hãn (chủ biên), NXB: 2006, Đại cương lịch sử Việt Nam - tập 3; NXB: Giáo dục. </ref>
 
Phương châm hoạt động là ''"đánh dài ngày, đánh liên tục, tiến từng bước chắc, đồng thời sẵn sàng nắm thời cơ thuận lợi để phát triển nhanh chóng. Về chiến thuật là vây điểm, diệt viện; diệt viện, phá điểm”''<ref>Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch, t.4, tr.240.</ref>
 
==Lực lượng tham gia chiến dịch==
Gồm các [[Đại đoàn 308]], [[Sư đoàn 312, Quân đội Nhân dân Việt Nam|312]] và [[Sư đoàn 316, Quân đội Nhân dân Việt Nam|316]] (thiếu), Tiểu đoàn 910 (Trung đoàn 148), 6 đại đội [[sơn pháo]] 75mm, 3 đại đội [[súng cối]] 120mm, 1 trung đoàn công binh và 11 đại đội bộ đội địa phương, do Bộ Tổng tư lệnh tổ chức, chỉ huy. Tổng quân số của hai hướng lên tới 36.000 người.
===Quân đội Nhân dân Việt Nam===
Gồm các [[Đại đoàn 308]], [[Sư đoàn 312, Quân đội Nhân dân Việt Nam|312]] và [[Sư đoàn 316, Quân đội Nhân dân Việt Nam|316]] (thiếu), Tiểu đoàn 910 (Trung đoàn 148), 6 đại đội [[sơn pháo]] 75mm, 3 đại đội [[súng cối]] 120mm, 1 trung đoàn công binh và 11 đại đội bộ đội địa phương, do Bộ Tổng tư lệnh tổ chức, chỉ huy. Tổng quân số của hai hướng lên tới 36.000 người.
 
[[Võ Nguyên Giáp]] làm Tư lệnh chiến dịch, [[Hoàng Văn Thái]] làm Tham mưu trưởng, [[Nguyễn Chí Thanh]] làm Chủ nhiệm chính trị, [[Trần Đăng Ninh]] làm Chủ nhiệm cung cấp hậu cần.
 
Công tác đảm bảo hậu cần, gạo ở hướng chính trong đợt 1 là 1.195 tấn cho bộ đội và 142 tấn cho dân công. Hướng phụ là 104 tấn cho bộ đội và 43 tấn cho dân công. Dân công đi theo bộ đội là 4.300 người; dân công vận chuyển khác là 27.750 người. Đợt 2 và 3 là 3.400 tấn (không kể số gạo dân công ăn trên dọc đường). Hai tỉnh [[Phú Thọ]], [[Yên Bái]] huy động 450 chiếc thuyền, phà đưa 30.000 bộ đội, dân công cùng với binh khí kỹ thuật qua sông.
 
Tổng kết toàn Chiến dịch Tây Bắc, đã huy động 11.750 tấn gạo (tiêu thụ hết 9.890 tấn gạo, 164 tấn muối, 328 tấn thịt, 82 tấn thực phẩm khác), huy động 200.000 dân công (bằng bảy triệu ngày công). Lượng vật chất bảo đảm cho chiến dịch khoảng 9.000 tấn lương thực thực phẩm, 120 tấn vũ khí, đạn dược và dụng cụ thuốc men cần thiết để cứu chữa cho khoảng 5.000 thương binh.
 
===Lực lượng quân Pháp===
Gồm 8 tiểu đoàn, trong đó có năm tiểu đoàn [[người Thái]] ba tiểu đoàn cơ động người Phi, ngoài ra còn có 43 đại đội bộ binh Thái làm nhiệm vụ chiếm đóng, bố trí thành 144 cứ điểm thuộc bốn phân khu: [[Lai Châu]], [[Sông Đà]], [[Nghĩa Lộ]], [[Sơn La]] và 3 tiểu khu độc lập [[Thuận Châu]], [[Phù Yên]], [[Tuần Giáo]]; trong quá trình chiến dịch, được tăng viện thêm 9 tiểu đoàn bộ binh và dù Âu-Phi, 3 tiểu đoàn nguỵ, 1 tiểu đoàn biệt kích hỗn hợp, 1 tiểu đoàn pháo binh.
 
Gồm 8 tiểu đoàn, trong đó có năm tiểu đoàn [[người Thái]] và ba tiểu đoàn cơ động người Phi, ngoài ra còn có 43 đại đội bộ binh Thái làm nhiệm vụ chiếm đóng, bố trí thành 144 cứ điểm thuộc bốn phân khu: [[Lai Châu]], [[Sông Đà]], [[Nghĩa Lộ]], [[Sơn La]] và 3 tiểu khu độc lập [[Thuận Châu]], [[Phù Yên]], [[Tuần Giáo]];
 
Trong quá trình chiến dịch, được tăng viện thêm 9 tiểu đoàn bộ binh và dù Âu-Phi, 3 tiểu đoàn ngụy Thái, 1 tiểu đoàn biệt kích hỗn hợp, 1 tiểu đoàn pháo binh gồm 11 khẩu [[đại bác]].
 
Công sự ở Nghĩa Lộ - Gia Hội, Cửa Nhì, Phong Thổ đã được cải tiến, có hầm ngầm, [[lô cốt]] xi-măng cốt thép. Còn các vị trí khác đều xây dựng theo kiểu cũ. Phần lớn, các vị trí đều đóng trên điểm cao, tiếp tế bằng máy bay, hàng ngày lính phải xuống chân núi lấy nước, vì vậy dễ bị bao vây khống chế. Việc tiếp tế và tiếp viện cho toàn khu và phân khu chủ yếu dựa vào không quân với khả năng tối đa 48 tấn một ngày và một tiểu đoàn dù. Việc tiếp tế giữa phân khu và cứ điểm chủ yếu bằng sức người và ngựa thồ.
 
==Diễn biến==
Hàng 58 ⟶ 38:
 
===Đợt 1 (từ [[14 tháng 10|14]] đến [[23 tháng 10]])===
Tối ngày [[7 tháng 10]] năm 1952, các đơn vị QĐNDVN vượt sông Hồng tiến vào Tây Bắc. Ngày 14, chiến dịch được mở màn hoàn toàn bất ngờ đối với Pháp. Lực lượng [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] (QĐNDVN) tiến công phân khu Nghĩa Lộ, tiểu khu Phù Yên, tiêu diệt và bức rút hàng loạt cứ điểm ([[Ca Vịnh]], [[Sài Lương]], [[Pú Chạng]], [[Nghĩa Lộ]] phố…), phá tan toàn bộ phòng tuyến vành ngoài của [[Pháp]] từ hữu ngạn [[Sông Thao]] đến tả ngạn [[Sông Đà]], từ [[Vạn Yên]] đến [[Quỳnh Nhai]].
Sau thất bại của [[chiến dịch Lý Thường Kiệt]] hồi tháng 10-1951, QĐNDVN vẫn không bỏ ý định chiếm [[Nghĩa Lộ]] bởi đây là nút chặn quan trọng trên đường tiếp tế vùng tây bắc. Thị trấn Nghĩa Lộ nằm giữa một thung lũng rộng lớn có đông đúc dân cư và có hai đại đội trấn giữ, chia ra đồn thượng trên ngọn đồi cao nhòm xuống thị trấn và đồn hạ, một đồn thấp nằm ngay trong thị trấn.
 
Sau thất bại của [[chiến dịchdịc Lý Thường Kiệt]] hồi tháng 10-1951, QĐNDVN vẫn không bỏ ý định chiếm [[Nghĩa Lộ]] bởi đây là nút chặn quan trọng trên đường tiếp tế vùng tây bắc. Thị trấn Nghĩa Lộ nằm giữa một thung lũng rộng lớn có đông đúc dân cư và có hai đại đội trấn giữ, chia ra đồn thượng trên ngọn đồi cao nhòm xuống thị trấn và đồn hạ, một đồn thấp nằm ngay trong thị trấn.
Ngày 4-10-1952, sau khi nhận thấy những dấu hiệu hoạt động gia tăng của QĐNDVN trong vùng, bộ Chỉ huy Pháp gửi toán quân Ta-bo đến Nghĩa Lộ để tăng cường.
 
Ngày 4-10-195252, sau khi nhận thấy những dấu hiệu hoạt động gia tăng của QĐNDVN trong vùng, bộ ChỉChì huy Pháp gửi toán quân Ta-bo đến Nghĩa Lộ để tăng cường.
Tối ngày [[7 tháng 10]] năm 1952, các đơn vị QĐNDVN vượt sông Hồng tiến vào Tây Bắc. Ngày 14, chiến dịch được mở màn hoàn toàn bất ngờ đối với Pháp. Lực lượng [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] (QĐNDVN) tiến công phân khu Nghĩa Lộ, tiểu khu Phù Yên, tiêu diệt và bức rút hàng loạt cứ điểm ([[Ca Vịnh]], [[Sài Lương]], [[Pú Chạng]], [[Nghĩa Lộ]] phố…), phá tan toàn bộ phòng tuyến vành ngoài của [[Pháp]] từ hữu ngạn [[Sông Thao]] đến tả ngạn [[Sông Đà]], từ [[Vạn Yên]] đến [[Quỳnh Nhai]].
 
Tối ngày [[7 tháng 10]] năm 1952, các đơn vị QĐNDVN vượt sông Hồng tiến vào Tây Bắc. Ngày 14, chiến dịch được mở màn hoàn toàn bất ngờ đối với Pháp. QĐNDVN đánh [[Ca Vinh]], [[Sài Lương]], hai vị trí nằm ở phía tây Nghĩa Lộ. Cùng ngày ở phía Nam trên sông Đà tiêu diệt vị trí Gia Phù.
Ngày 14 và 15 những đồn bót nhỏ về phía đông, ven sông Hồng phải rút về Nghĩa lộ vì áp lực gia tăng của QĐNDVN. Ngày 15-10, đồn Gia Hội ở cách 20 cây số về phía bắc Nghĩa Lộ báo tin là bị cô lập. Trong ngày, Ti-ri-ông (Tirillon), chỉ huy phân khu Nghĩa Lộ đưa đại đội Ta-bo về phía Khâu Vác thăm dò lực lượng. Một đơn vị của Đại đoàn 312 đã tiêu diệt gọn đại đội này ở Nậm Mười.
 
Ngày 14 và 15 những đồn bót nhỏ về phía đông, ven sông Hồng phải rút về Nghĩa lộ vì áp lực gia tăng của QĐNDVN. Ngày 1516-10, đồn Gia Hội ở cách 20 cây số về phía bắc Nghĩa Lộ báo tin là bị cô lập. Trong ngày, Ti-ri-ông (Tirillon), chỉ huy phân khu Nghĩa Lộ đưa đại đội Ta-bo về phía Khâu Vác thăm dò lực lượng. Một đơn vị của Đại đoàn 312 đã tiêu diệt gọn đại đội này ở Nậm Mười.
Trước diễn biến quá nhanh, Salan không kịp trở tay. Ngày 15-10, Salan thảo gấp chỉ thị mật từ Sài Gòn và giao cho Đại tá Bút-xa-ri chuyển cho [[De Linarès]] đang chỉ huy quân Pháp tại Hà Nội, trong đó chỉ rõ: ''“Nghĩa Lộ và Sơn La đang bị uy hiếp nặng nề… nhưng các yếu tố nắm được chưa cho phép chúng ta có chủ trương… Phải đợi cho Việt Minh lộ rõ ý định của họ”''
 
Ngày 16 tháng -10, quân Pháp ở các vị trí Thượng Bằng La, Ba Khe và một loạt vị trí nhỏ xung quanh những cứ điểm bị diệt tự động bỏ đồn rút chạy. [[De Linarès]], Tư lệnh quân Pháp ở Bắc Bộ, vội thả một [[tiểu đoàn dù]] do đại tá [[Marcel Bigeard]] chỉ huy xuống đồn [[Tu Lệ]], cách Gia hộì 10 cây số về phia tây tức là cách Nghĩa lộ 30 cây số. Tu Lệ là một đồn nhỏ có một tiểu đội lính Thái trấn giữ nằm trên ngã ba đường, một đàng xuống Nghĩa Lộ (đông nam), một đàng về [[Sơn La]] (tây nam), một đàng lên Thân Uyên, [[Quỳnh Nhai]] (Tây bắc).
 
Do chiếm lĩnh chậm, đến 35 giờ chiều ngày 17-10-1952, trung đoàn 88 mới tiến công Nghĩa Lộ Phố. tất cả hoả lực đại bác của [[đại đoàn 308]] QĐNDVN đổ vào đồn Nghĩa Lộ, tiếp theo là bộ binh xung phong với [[súng không giật]] và mìn, băng-ga-lo phá hàng rào, phá tường đồn, sau cùng là các mũi xung kích tràn vào những lỗ hổng đã phá được, rồi những trận giáp lá cà bằng dao găm, lưỡi lê cho đến lúc đại đội Pháp và Thái trấn giữ, đồn thượng bị tiêu diệt hết. Đến nửa đêm, đồn hạ cũng bị tấn công theo chiến thuật đó. 9 giờ sáng ngày 18-10, QĐNDVN hoàn toàn chiếm được hai đồn bảo vệ Nghĩa Lộ, loại khỏi vòng chiến đấu 280 lính (diệt 45, bắt 235), thu 2 khẩu [[đại bác]] 105 ly và hàng nghìn viên đạn pháo.
Ngày 17, hai trung đoàn của [[Đại đoàn 308]], lợi dụng sương mù, từ 9 giờ sáng, đã có mặt trên những quả đồi đối diện với [[Pú Chạng]] (Nghĩa Lộ đồi), có khoảng 300 quân Pháp đồn trú. [[Trung đoàn 88]] chờ trời tối tiến vào vị trí Nghĩa Lộ Phố, ở cuối thị trấn do 400 lính chiếm giữ. [[Trung đoàn 36]] đã bao vây đồn Cửa Nhì. 14 giờ 30 phút, [[súng cối]] 120mm của QĐNDVN bắn vào trận địa pháo 105mm ở Nghĩa Lộ Phố, tạo điều kiện cho các mũi xung kích của tiểu đoàn 102 tiếp cận cứ điểm Pú Chạng.
 
Tới ngày 23, [[Đại đoàn 312]] có mặt trên sông Đà, chỉ sau 11 ngày đêm chiến đấu đã chiếm hữu ngạn sông Thao, tả ngạn sông Đà từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai, làm chủ đường 13 nối liền từ [[Yên Bái]] đến Nghĩa Lộ. Trước áp lực của Đại đoàn 312 ở hướng tây bắc, quân Pháp ở Gia Hội bỏ đồn rút về Tú Lệ, cùng với tiểu đoàn dù 6 chạy về phía sông Đà. Bộ chỉ huy chiến dịch điều trung đoàn 165 tiến công Tú Lệ và truy kích đến đèo Cao Phạ, diệtquyết định bắtkết gầnthúc 400đợt lính1.
Máy bay Pháp đến bắn phá, yểm trợ. Ba tốp máy bay [[F8F Bearcat]] và một tốp [[B-26 Invader]] xuất hiện trên bầu trời, ném [[bom napalm]] và bom phá vào đội hình xuất phát xung phong, làm 34 cán bộ, chiến sĩ bị thương, trong đó có Trung đoàn phó [[Nguyễn Hùng Sinh]]. Phòng không Việt Nam bắn rơi hai máy bay. Xung kích QĐNDVN mở cửa đột phá, đại đội chủ công 267 lọt vào đồn, thọc sâu chia cắt quân Pháp. Sau ba giờ chiến đấu, QĐNDVN làm chủ cứ điểm Pú Chạng, bắt 177 lính, trong đó có viên quan tư Ti-ri-ông chỉ huy phân khu. Trong lúc thu dọn chiến trường, máy bay Pháp lại ném bom xuống trận địa, Tiểu đoàn trưởng Vũ Phương hy sinh ngay dưới chân đồi.
 
Pháp tăng viện cho Tây Bắc, dồn quân về xây dựng tập đoàn cứ điểm [[Nà Sản]] ở [[Lai Châu]], đồng thời mở cuộc [[Cuộc hành binh Lorraine|hành quân Lorraine]] (''Opération Lorraine'') đánh lên Phú Thọ ([[28 tháng 10]]) nhằm kéo chủ lực QĐNDVN về đối phó, nhưng không đạt được mục đích (xem [[Trận Chân Mọng-Trạm Thản]] ngày [[17 tháng 11]] năm 1952).
Do chiếm lĩnh chậm, đến 3 giờ chiều ngày 17-10-1952, trung đoàn 88 mới tiến công Nghĩa Lộ Phố. tất cả hoả lực đại bác của [[đại đoàn 308]] QĐNDVN đổ vào đồn Nghĩa Lộ, tiếp theo là bộ binh xung phong với [[súng không giật]] và mìn, băng-ga-lo phá hàng rào, phá tường đồn, sau cùng là các mũi xung kích tràn vào những lỗ hổng đã phá được, rồi những trận giáp lá cà bằng dao găm, lưỡi lê cho đến lúc đại đội Pháp và Thái trấn giữ, đồn thượng bị tiêu diệt hết. Đến nửa đêm, đồn hạ cũng bị tấn công theo chiến thuật đó. 9 giờ sáng ngày 18-10, QĐNDVN hoàn toàn chiếm được hai đồn bảo vệ Nghĩa Lộ, loại khỏi vòng chiến đấu 280 lính (diệt 45, bắt 235), thu 2 khẩu [[đại bác]] 105 ly và hàng nghìn viên đạn pháo.
 
Khi đó, Tổng chỉ huy Sa-lăng đang ở Sài Gòn vẫn từng giờ, từng phút chờ đợi De Linarès điện báo về, đêm 17-10 là ''“một đêm đầy lo âu, vì những tin tức hằng giờ bay vào Sài Gòn luôn mâu thuẫn nhau”''. Ngày 18-10, lo ngại của tướng Salan đã thành sự thật, De Linarès bay từ Tây Bắc về Hà Nội báo cáo: ''“Thế là hết”''. Nội dung ngắn gọn nhưng viên Tổng chỉ huy đã hiểu mọi điều. Thêm vào đó, [[Bernard Fall]] viết: ''“Từ trên máy bay, các phi công nhìn thấy rất rõ từng đoàn tù binh kéo đi, tay giơ quá đầu, lê bước giữa hai hàng lính Việt Minh”''.<ref>http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/211518/print/Default.aspx</ref>
 
Trên hướng thứ yếu, đêm 14 tháng 10, [[trung đoàn 98]] tiến công tiêu diệt cứ điểm Nha Phù, và đêm 17 tháng 10, tiêu diệt sở chỉ huy tiểu khu Phù Yên ở Bản Mo. Quân Pháp ở Vạn Yên rút chạy sang hữu ngạn sông Đà.
 
Ở hướng phối hợp, phía nam Lai Châu, ngày 14 tháng 10, tiểu đoàn 910 [[trung đoàn 148]] đánh đại đội 5 của tiểu đoàn Thái, chiếm Quỳnh Nhai. Ngày 23, tiểu đoàn 542 trung đoàn 165 diệt một đại đội của tiểu đoàn Ta-bo 17 ở Pắc Ná, số còn lại chạy sang bên kia sông Đà.
 
Tới ngày 23, [[Đại đoàn 312]] có mặt trên sông Đà, chỉ sau 11 ngày đêm chiến đấu đã chiếm hữu ngạn sông Thao, tả ngạn sông Đà từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai, làm chủ đường 13 nối liền từ [[Yên Bái]] đến Nghĩa Lộ. Trước áp lực của Đại đoàn 312 ở hướng tây bắc, quân Pháp ở Gia Hội bỏ đồn rút về Tú Lệ, cùng với tiểu đoàn dù 6 chạy về phía sông Đà. Bộ chỉ huy chiến dịch điều trung đoàn 165 tiến công Tú Lệ và truy kích đến đèo Cao Phạ, diệt và bắt gần 400 lính.
 
Sau 10 ngày chiến đấu, QĐNDVN đã diệt 500 lính, bắt trên 1.000, giải phóng một vùng đất quan trọng từ hữu ngạn sông Hồng đến tả ngạn sông Đà, từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai, rộng 10.000 km2. Ngày 23 tháng 10, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc đợt 1 và di chuyển sở chỉ huy từ Khe Lóng về Gia Phù, gần Tạ Khoa, trên vùng đất vừa giải phóng.
 
Pháp tăng viện cho Tây Bắc 8 tiểu đoàn mới là hai tiểu đoàn dù (6e BPC, 1e BEP), hai tiểu đoàn [[lê dương]] (3/1 REI và 3/5 REI), hai tiểu đoàn Phi (31 RTM và 27 BMTS), hai tiểu đoàn [[Quốc gia Việt Nam]] (55e BVN và 58 BCL). Cộng với 8 tiểu đoàn còn lại, đưa quân số Pháp ở Tây Bắc lên 16 tiểu đoàn và 32 đại đội.
 
====Cuộc hành binh Lorraine====
Pháp dồn quân về xây dựng tập đoàn cứ điểm [[Nà Sản]] ở [[Lai Châu]], đồng thời mở cuộc [[Cuộc hành binh Lorraine|hành quân Lorraine]] (''Opération Lorraine'') đánh lên Phú Thọ ([[28 tháng 10]]) nhằm kéo chủ lực QĐNDVN về đối phó. Ngày 5 tháng 11, Pháp huy động 13 [[tiểu đoàn]] bộ binh của các binh đoàn cơ động số 1, 2, 3, 4, 5 và ba tiểu đoàn dù, hai hải đoàn xung kích, bốn tiểu đoàn [[pháo binh]], hai tiểu đoàn cơ giới, bảy [[đại ]]đội công binh. QĐNDVN đã bố trí ở Phú Thọ trung đoàn 176, một tiểu đoàn của trung đoàn 246 cùng với bộ đội địa phương có nhiệm vụ ngăn chặn. Bộ chỉ huy quyết định điều thêm trung đoàn 36 về Phú Thọ đánh địch. Mục tiêu và kế hoạch đợt 2 chiến dịch vẫn không thay đổi.
 
Trong những ngày tiếp sau, các trung đoàn 36, 74 cùng lực lượng vũ trang địa phương đánh mạnh. Du kích huyện [[Tam Nông]] phục kích diệt 40 lính. Du kích một xã ở [[Lâm Thao]] một ngày diệt 20 lính. Du kích thị xã Phú Thọ giật bom tiêu diệt một trung đội. Dân quân Thanh Ba diệt 10 lính, dân quân Phù Ninh bám đường số 2 đánh mìn, diệt một xe... Trong vòng 10 ngày, từ 5 đến 15-11-1952, chỉ riêng bên tả ngạn [[sông Hồng]] đã có 34 vị trí từ một trung đội đến một đại đội Pháp bị tiêu diệt, 16 vị trí rút chạy và 29 vị trí bị bao vây. Sáng 14-11-1952, QĐNDVN đánh vào Phát Diệm, bắn chìm 3 tàu và tiêu diệt 3 đại đội đồn trú.
 
Ngày 17 tháng 11 năm 1952, một đoàn xe của GM4 về tới Chân Mộng trên đường số 2 lọt vào trận địa phục kích, bị trung đoàn 36 tiêu diệt trên 400 lính, bắt sống 84, phá huỷ 44 xe cơ giới (có 17 xe thiết giáp), thu 1 [[xe tăng]] (xem [[Trận Chân Mộng-Trạm Thản]] ngày [[17 tháng 11]] năm 1952).<ref>http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/10/52/52/214071/Default.aspx</ref>
 
Trong gần một tháng, QĐNDVN ở Phú Thọ đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.884 lính, trong đó bắt 173, có 100 lính Âu - Phi, phá huỷ 60 xe cơ giới, thu nhiều vũ khí. Quân Pháp tổn thất lớn và phải rút khỏi Việt Trì, kết thúc cuộc hành quân Lorraine khi chưa đạt được mục đích.
 
===Đợt 2 (từ [[7 tháng 11|7]] đến [[22 tháng 11]])===
Hàng 101 ⟶ 60:
 
Ngày [[17 tháng 11]], QĐNDVN vượt [[sông Đà]], tiêu diệt vị trí [[Bản Hoa]]. Đêm tiếp theo tiêu diệt vị trí Ba Lay. Với hai trận đánh, Đại đoàn 312 tiêu diệt gọn tiểu đoàn 3 Marốc và một đại đội quân [[Quốc gia Việt Nam]]. Ngày [[18 tháng 12]] tiêu diệt vị trí [[Hát Tiêu]], [[Mường Lụm]]. Quân Pháp bỏ Tạ Khoa chạy về Cò Nòi. [[Đại đoàn 308]] truy kích, quyết sạch phòng tuyến quân Pháp trên bờ sông Đà. Ngày [[19 tháng 11|19]], đánh vào [[Mộc Châu]], chiếm các lô cốt trận địa pháo. Quân Pháp ở Chiềng Pan, sông Con, Tạ Khoa vội vã rút chạy. Đường số 6 được khai thông, cánh cửa vào Tây Bắc với QĐNDVN được mở rộng.
 
Ngày 18 tháng 11, quân Pháp rút khỏi Sơn La, [[trung đoàn 165]] tiếp quản Sơn La, truy quét bắt gần 500 lính và trên 100 nhân viên của [[Quốc gia Việt Nam]].
 
Trên hướng phối hợp, Ban chỉ huy mặt trận Y13 điều tiểu đoàn 910 và 542 bất ngờ tập kích [[Điện Biên Phủ]]. Quân Pháp chạy tan vào rừng, ta tổ chức lùng sục kết hợp với địch vận, bắt 726 lính, hầu hết thuộc tiểu đoàn Lào (58 BCL), thu 600 súng các loại.<ref>Mặt trận Y13 thành lập ngày 24 tháng 10 năm 1952, do Bằng Giang làm Tư lệnh. Mệnh lệnh số 33 (20 tháng 10). Tài liệu chỉ đạo chiến dịch. t.4, tr.342.</ref>
 
Tại [[Tu Lệ]], đại tá Bigeard được tin Nghĩa Lộ mất, nhận lệnh của [[Raoul Salan]] phải cùng với quân số tất cả các đồn xung quanh tức khắc rút lui về phía [[Nà Sản]], là một đồn ở trên đường tỉnh lộ số 41 từ [[Hoà Bình]] lên [[Lai Châu]] và cách [[Sơn La]] 10 km về phía đông nam. Nà Sản có một sân bay lớn, máy bay Dakota có thể đáp xuống được. Ngày 21-10-52, sau một đêm cầm cự chống cuộc tấn công của QĐNDVN, Bigeard cùng các lính các đồn chung quanh tụ tập tại Tu Lệ, triệt thoái khỏi đồn. Một giờ trưa bắt đầu cuộc hàng trình trực chỉ hướng tây.
Hàng 122 ⟶ 77:
QĐNDVN tiếp tục tiến công quân [[Pháp]] ở Nà Sản. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định triển khai đợt 3, Nà Sản là mục tiêu, nhưng quân Pháp thả dù thêm cho Nà Sản 2 tiểu đoàn. Cứ điểm này trở thành một cứ điểm kiên cố nằm trong cấu trúc chặt chẽ của một tập đoàn cứ điểm.
 
Đêm 3031-11 rạng ngày 311-1112-1952, QĐNDVN ồ ạt tấn công vào các điểm tựa phía đông bắc., [[Trungxung đoàn 102]] cùng [[trung đoàn 88]] của [[Đại đoàn 308]] tiến công Pú Hồng (điểm cao 753). Sau 1 giờ 45 phút chiến đấu, QĐNDVNphong chiếm được điểm tựa số 24 do trung úy Pipart phụ trách với một đại đội lính Thái và lính [[Ma rốc]], diệt bốn trung đội của GM1 đóng tại đây, bắt sống viên quan ba chỉ huy. Cùng đêm, tiểu đoàn 115 của trung đoàn 165 Đại đoàn 312 tiến công vị trí Bản Hời. Sau hơn một giờ chiến đấu, QĐNDVN diệt một đại đội địch. Tới gần sáng, nhờ trọng pháo và [[không quân]] yểm trợ, Gilles phản công với những đơn vị dự trữ, QĐNDVN rút lui, Gilles lấy lại được đồn.
 
Đêm hôm sau, 11 tiểu đoàn QĐNDVN ồ ạt tấn công vào hai đồn chính bảo vệ Nà Sản. Từ 9 giờ đêm đến 7 giờ sáng, nhờ thời tiết tốt nên máy bay Pháp thả pháo sáng khắp trận địa, liên tiếp ném bom và bắn pháo liên thanh xuống vị trí QĐNDVN, đồng thời các giàn [[đại bác]] nhả đạn xung quanh đồn, ở trong đồn thì lính cố sức cầm cự, QĐNDVN thiệt hại nhiều mà không chiếm được đồn. Trung đoàn 209 đánh Bản Vây cũng không kết quả. Trời sáng, Pháp dùng máy bay oanh tạc và bắn trên 5.000 quả đạn pháo để cứu nguy cho các cứ điểm. Đến sáng, QĐNDVN rút lui.
 
Ngày 2 tháng 12, địch thả dù tăng cường thêm cho Nà Sản hai tiểu đoàn, quyết giữ tập đoàn cứ điểm này. Những ngày sau, QĐNDVN biết là vấp phải sức kháng cự mạnh mẽ, nếu tiếp tục tấn công thì bất lợi. Trước những khó khăn mới nảy sinh, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch Tây Bắc, QĐNDVN rút lui khỏi Nà Sản không trở lại nữa.
 
====Các hướng khác====
Hàng 144 ⟶ 99:
[[Bernard Fall]] đã viết về tình hình chiến dịch như sau: ''“Các sư đoàn Việt Minh ngay trước mắt người Pháp đang làm chủ trên không, đã vượt quá 180 dặm trong 6 tuần liền mà chẳng phải dùng đến môt con đường bay một xe cơ giới nào... Đến ngày [[10 tháng 12]], người Pháp mới rút lui tương đối an toàn về sau [[Phòng tuyến Tassigny]] ở phía bắc [[Hà Nội]] nhưng cũng phải thiệt hại khá nặng về cả người và trang bị"''.
 
Ngày [[10 tháng 12]] năm 1952, Hội nghị sơ kết chiến dịch phía [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] nhận định: ''“Chiến dịch Thu Đông 1952 đã thành công vượt mức dự kiến.”''<ref>Đại tướng Võ Nguyên Giáp, NXB: 2006, Tổng tập Hồi kí; NXB: Quân đội nhân dân (Hữu Mai thể hiện).</ref> Hướng Tây Bắc, QĐNDVN đã tiêu diệt và bắt 6.029 quân Pháp và chưđồng hầuminh; ngoài ra còn thu được thắng lợi quan trọng ở [[Phú Thọ]], tiêu diệt 1.711, bắt 173. Toàn chiến dịch, QĐNDVN đã xóa bỏ và chiếm 85 vị trí, thu 3.785 súng các loại, 90 máy vô tuyến điện, 1459 dù, mở rộngro65gn kiểm soát thêm 28.000 km2 với 250.000 dân trong đó có [[thị xã Sơn La]] và toàn tỉnh [[Sơn La]] (trừ Nà Sản). Ở đồng bằng [[Liên khu 3]], tiêu diệt 12 vị trí cỡ đại đội, diệt 4.031 quân Pháp và chưđồng hầuminh, bắt 1.746, mở rộng nhiều khu căn cứ ở tả ngạn và hữu ngạn sông Hồng, nối liền vùng kiểm soát Tây Bắc với căn cứ địa [[Việt Bắc]] và Thượng Lào, giữ vững thế chủ động tiến công, làm thất bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của Pháp.
 
Tuy còn những hạn chế, nhưng chiến dịch này vẫn giành được thắng lợi lớn. Vì vậy, ngày 29 tháng 1 năm 1953, trong hội nghị tổng kết Chiến dịch Tây Bắc, Chủ tịch [[Hồ Chí Minh]] khen ngợi: ''“Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác bằng lòng các chú, lần này chưa phải hoàn toàn, nhưng hơn mọi lần trước”''<ref>Hồ sơ 579, trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng.</ref>
 
Về ý nghĩa Chiến dịch Tây Bắc, ngày 10 tháng 12 năm 1952, thay mặt Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch, Đại tướng [[Võ Nguyên Giáp]], Tổng Tư lệnh kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch đánh giá: ''“Thu đông 1952 là thu đông chiến thắng Tây Bắc. Nếu nhìn rộng ra toàn chiến trường Bắc Bộ thì đó là thắng lợi lớn của ta trên con đường tiếp tục giành thế chủ động... Thắng lợi đó đã rèn luyện nhiều cho bộ đội ta về kỹ thuật, củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, củng cố và mở rộng khối đoàn kết toàn dân, tăng cường lực lượng kháng chiến của nhân dân, nâng cao lòng tin tưởng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đối với Đảng và Hồ Chủ tịch…”''<ref>Báo cáo kế hoạch tác chiến chiến dịch và tổng kết kinh nghiệm của các chiến dịch lớn, Bộ Tổng tham mưu, Xb. 1963, t. 2, tr.217</ref>
 
== Chú thích ==