Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bộ Đà điểu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Tiến hóa và hệ thống học: chú thích, replaced: {{cite web → {{chú thích web, {{cite journal → {{chú thích tạp chí (4)
Dòng 41:
HIện tại tồn tại 2 phương thức tiếp cận [[phân loại học]] trong phân loại chim chạy: phương thức thứ nhất, được sử dụng tại bài này, kết hợp các nhóm như là các [[họ (sinh học)|họ]] trong [[bộ (sinh học)|bộ]] '''Struthioniformes''', trong khi phương thức thứ hai cho rằng các dòng dõi đã tiến hóa chủ yếu là độc lập với nhau và vì thế nâng các họ lên cấp bộ (như [[Rheiformes]], [[Casuariiformes]] v.v.).
 
Một số nghiên cứu dựa trên hình thái học, miễn dịch học và trình tự ADN chỉ ra rằng các loài chim chạy là [[đơn ngành]]<ref name = "Haddrath, O & Baker, A (2001)">{{citechú journalthích tạp chí|last1='''Haddrath'''
|first1=O.|last2=Baker|first2=A.|title=Complete Mitochondrial DNA Genome Sequences of Extinct Birds: Ratite Phylogenetics and the Vicariance Biogeography Hypothesis|journal=Proc. R. Soc. Lond. B|volume=268|pages=939–945|date=2001|url= http://journals.royalsociety.org/content/597tbumbn1wr76k3/|doi=10.1098/rspb.2001.1587|accessdate=}}</ref>. MIêu tả truyền thống về tiến hóa của chim chạy là một nhóm xuất hiện ở dạng chim không bay tại [[Gondwana]] trong [[kỷ Creta]], sau đó đã tiến hóa theo các hướng tách biệt do các châu lục bị trôi dạt ra xa nhau. Tuy nhiên, phân tích gần đây về biến thiên gen giữa các loài chim chạy lại mâu thuẫn với điều đó: phân tích ADN dường như chỉ ra rằng các loài chim chạy đã rẽ nhánh ra khỏi nhau quá gần đây để có thể chia sẻ cùng một tổ tiên Gondwana chung. Bên cạnh đó, hóa thạch Trung Eocen của "tiền-đà điểu" ''[[Palaeotis]]'' từ Trung Âu có thể ngụ ý rằng giả thuyết "ngoài Gondwana" là sai. Ngoài ra, phân tích gần đây với 20 gen hạt nhân đã đặt câu hỏi về tính đơn ngành của nhóm, gợi ý rằng các loài tinamou có thể bay được cũng gộp lại trong phạm vi dòng dõi chim chạy<ref name = "Harshman">{{citechú journalthích tạp chí
|last='''Harshman'''|first=J.|coauthors=và ctv.|title=Phylogenetic Evidence for Multiple Losses of Flight in Ratite Birds|journal=Proceedings of the National Academy of Sciences (USA)|volume=105
|issue=36|pages=13462–13467|date=9-9-2008|url=http://www.pnas.org/content/105/36/13462
|doi=10.1073/pnas.0803242105|accessdate=17-10-2008}}</ref>.
 
Nghiên cứu so sánh đối với toàn bộ trình tự ADN ti thể của các loài chim chạy còn sinh tồn cộng với 2 loài moa (khủng điểu) đặt moa tại vị trí cơ sở, tiếp theo là đà điểu châu Mỹ, tiếp nữa là đà điểu châu Phi, tiếp theo là kiwi, với đà điểu Úc (emu) và đà điểu đầu mào là các họ hàng gần gũi nhất<ref name = "Haddrath, O & Baker, A (2001)" />. Một nghiên cứu khác lại đảo lại vị trí tương đối của moa và đà điểu châu Mỹ và chỉ ra rằng chim voi không phải là họ hàng gần của đà điểu châu Phi hay các loài chim chạy khác<ref name = "Cooper">{{citechú journalthích tạp chí|last1='''Cooper'''
|first1=A.|last2=Lalueza-Fox|first2=C.|last3=Anderson|first3=S.|last4=Rambaut|first4=A.|last5= Austin|first5=J.|last6=Ward|first6=R.|title=Complete Mitochondrial Genome Sequences of Two Extinct Moas Clarify Ratite Evolution|journal=Nature|volume=409|pages=704–707|date=8-2-2001|url=http://www.nature.com/nature/journal/v409/n6821/abs/409704a0.html|doi=10.1038/35055536|accessdate=5-4-2008}}</ref>, trong khi nghiên cứu các gen hạt nhân lại chỉ ra là đà điểu châu Phi rẽ nhánh đầu tiên, tiếp theo là đà điểu châu Mỹ và tinamou, sau đó là kiwi tách ra từ đà điểu Úc và đà điểu đầu mào<ref name = "Harshman"/>. Các nghiên cứu chia sẻ các niên đại rẽ nhánh ngụ ý rằng trong khi các tổ tiên của moa có thể từng tồn tại ở New Zealand kể từ khi nó tách ra khỏi các phần khác của Gondwana, các tổ tiên của kiwi dường như bằng một cách nào đó đã phát tán tới đây (New Zealand) từ Australia gần đây hơn, có lẽ thông qua cầu đất liền hay bằng cách "nhảy" qua các đảo. Theo các phân tích có sớm hơn thì đà điểu châu Phi dường như đã tới châu Phi theo một lộ trình nào đó sau khi nó tách khỏi Nam Mỹ (như bằng xâm lấn [[đại lục Á Âu]] và sau đó châu Phi tách ra khỏi Ấn Độ), nhưng các dữ liệu hạt nhân chỉ ra rằng đà điểu châu Phi rẽ nhánh đầu tiên có lẽ phù hợp với trình tự tách [[kiến tạo mảng|mảng kiến tạo]] của Gondwana<ref name = "Harshman"/>. Các khía cạnh khác (nhưng không phải tất cả) trong [[địa sinh học|cổ địa sinh học]] chim chạy là phù hợp với giả thuyết [[hình thành loài theo địa lý]] (sự chia tách [[kiến tạo mảng]] của Gondwana).
 
Các nghiên cứu bộ gen phát sinh loài gần đây gợi ý rằng tinamou trên thực tế có thể thuộc về nhóm này. Nếu như thế, nó làm cho nhóm 'chim chạy' trở thành [[cận ngành]] chứ không phải [[đơn ngành]]<ref name="Harshman"/><ref>{{citechú journalthích tạp chí|last = '''Hackett'''|first = Shannon J.|coauthors = và ctv.|title = A Phylogenomic Study of Birds Reveals Their Evolutionary History|journal = Science|volume = 320|issue = 5884|pages = 1763–1768|date = 27-6-2008|url = http://www.sciencemag.org/cgi/content/abstract/320/5884/1763
|doi = 10.1126/science.1157704|accessdate = 18-10-2008}}</ref>. Điều này cũng đặt ra câu hỏi đáng chú ý về tiến hóa của khả năng bay được và khả năng không bay được trong nhóm này, do chim chạy theo truyền thống được cho là có tổ tiên không bay được và là nhóm đơn ngành, trong khi sự rẽ nhánh của tinamou trong phạm vi dòng dõi chim chạy chỉ ra rằng hoặc là khả năng bay được đã tái tiến hóa ở tinamou, hoặc là đã mất đi ở các loài chim chạy khác<ref>{{citechú thích web| url= http://www.newscientist.com/article/dn14212-bird-evolutionary-tree-given-a-shake-by-dna-study.html| title=Bird evolutionary tree given a shake by DNA study | accessdate=4-2-2009 | last=Holmes | first=Bob | date=16-6-2008 | work=New Scientist}}</ref>.
 
==Ảnh hưởng đến văn minh loài người==