Khác biệt giữa bản sửa đổi của “North Carolina (lớp thiết giáp hạm)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Value (thảo luận | đóng góp)
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n chú thích, replaced: {{cite web → {{chú thích web, {{cite book → {{chú thích sách (3), {{cite journal → {{chú thích tạp chí (2)
Dòng 50:
'''Lớp thiết giáp hạm ''North Carolina''''' là một lớp bao gồm hai [[thiết giáp hạm]] nhanh, [[USS North Carolina (BB-55)|''North Carolina'']] và [[USS Washington (BB-56)|''Washington'']], được chế tạo cho [[Hải quân Hoa Kỳ]] vào cuối những năm [[Thập niên 1930|1930]] và đầu những năm [[Thập niên 1940|1940]]. Thoạt tiên, Hải quân vẫn ngờ vực rằng lớp tàu này có đủ nhanh để đối phó với lớp tàu chiến-tuần dương Nhật Bản [[Kongō (lớp thiết giáp hạm)|''Kongō'']] hay không, vốn được người Mỹ tin rằng có thể đạt đến tốc độ {{convert|26|kn|mph km/h|link=on}}, hay phải hy sinh tốc độ để có được hỏa lực và vỏ giáp tăng cường. [[Hiệp ước Hải quân London thứ hai]] giới hạn tải trọng tiêu chuẩn của mọi tàu chiến chủ lực dưới {{convert|35000|LT|ST|link=on}}, có nghĩa là các tính năng mong muốn không thể đạt được trong các phạm vi giới hạn của hiệp định, và Hải quân Mỹ đã phải cân nhắc đến trên 50 thiết kế trước khi một kiểu được chọn.
 
Vào lúc kết thúc quá trình thiết kế dài đằng đẵng này, [[Ủy ban Tướng lĩnh Hải quân Hoa Kỳ|Ủy ban Tướng lĩnh Hải quân Mỹ]] tuyên bố ủng hộ thiết kế "XVI-C", vốn có tốc độ tối đa {{convert|30|kn|mph km/h|abbr=on}} và dàn pháo chính gồm chín khẩu [[Hải pháo 356 mm (14 inch)/50 caliber|{{convert|14|in|mm|abbr=on}}/50 caliber Mark B]]. Ủy ban tin rằng những con tàu như vậy có thể đảm nhiệm nhiều vai trò khác nhau, vừa có được sự bảo vệ thích đáng để có mặt trong hàng thiết giáp hạm cũng như có đủ tốc độ để hộ tống các [[tàu sân bay]] nhanh hay tham gia [[chiến tranh cướp tàu buôn]]. Tuy nhiên, Quyền Bộ trưởng Hải quân khi đó đã phê chuẩn phiên bản cải tiến của một thiết kế khác, "XVI", kiểu mà phiên bản nguyên thủy đã bị Ủy ban Tướng lĩnh loại bỏ. Thiết kế này có tốc độ {{convert|27|kn|mph km/h|abbr=on}} với mười hai khẩu pháo {{convert|14|in|mm|abbr=on}} trên những tháp súng bốn nòng và được bảo vệ chống lại đạn pháo có cùng cỡ nòng như vậy. Tách khỏi truyền thống về thực hành thiết kế tàu chiến Mỹ, "XVI" chấp nhận tốc độ chậm hơn và bảo vệ kém hơn để đổi lấy hỏa lực tối đa. Sau khi việc chế tạo đã bắt đầu, Hoa kỳ bắt đầu lo ngại việc Nhật Bản không tuân thủ giới hạn cỡ nòng pháo của Hiệp ước Hải quân London thứ hai, nên đã viện dẫn "điều khoản leo thang" của hiệp ước để nâng cấp dàn pháo chính thành chín khẩu [[Hải pháo 406 mm (16 inch)/45 caliber Mark 6|{{convert|16|in|mm|abbr=on}}/45 caliber Mark 6]] thay thế cho mười hai khẩu 14 inch (356  mm) như trong thiết kế ban đầu.
 
Cả ''North Carolina'' lẫn ''Washington'' đều được sử dụng rộng rãi trong [[Chiến tranh Thế giới thứ hai]] trong nhiều vai trò khác nhau, chủ yếu là tại [[Mặt trận Thái Bình Dương]], nơi chúng hộ tống các lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh và bắn pháo bờ biển. ''North Carolina'' đã bắn rơi 7-14 máy bay Nhật trong [[Trận chiến Đông Solomons]], và sau đó chịu đựng một quả [[ngư lôi]] bắn trúng từ một [[tàu ngầm]] Nhật. Trong một cuộc đụng độ ban đêm mãnh liệt trong khuôn khổ trận [[hải chiến Guadalcanal]], dàn pháo chính được [[radar]] dẫn hướng của ''Washington'' đã làm hỏng nặng thiết giáp hạm Nhật [[Kirishima (thiết giáp hạm Nhật)|''Kirishima'']], và nó bị đánh đắm vào ngày hôm sau. Vào [[tháng 2]] năm [[1943]], ''Washington'' bị hỏng nặng mũi tàu do va chạm với thiết giáp hạm [[USS Indiana (BB-58)|''Indiana'']]. Sau khi được sửa chữa, ''Washington'' hợp cùng con tàu chị em tham gia [[trận chiến biển Philippine]]. Sau khi chiến tranh kết thúc, cả hai chiếc đều tham gia [[Chiến dịch Magic Carpet]] để hồi hương binh lính Mỹ đang phục vụ tại nước ngoài. Cả hai chiếc trong lớp đều bị bỏ không trong thành phần hạm đội dự bị cho đến đầu những năm [[Thập niên 1960|1960]], khi ''North Carolina'' được bán cho [[Bắc Carolina|tiểu bang nhà]] như một [[tàu bảo tàng]], và ''Washington'' được bán để tháo dỡ.
Dòng 63:
== Thiết kế ==
=== "A" đến "M" ===
Ủy ban Tướng lĩnh bắt đầu chuẩn bị cho một lớp thiết giáp hạm mới vào [[tháng 5]]–[[tháng 7]] năm [[1935]]. Ba nghiên cứu thiết kế được đưa ra trình bày: "A" sẽ có trọng lượng choán nước {{convert|32150|LT|t|abbr=on}}, trang bị chín pháo {{convert|14|in|mm|0|adj=on}} trên ba [[tháp pháo]] ba nòng, tất cả đều được bố trí trước [[cầu tàu]], có tốc độ tối đa {{convert|30|kn|mph km/h}} và vỏ giáp có thể chịu được đạn pháo {{convert|14|in|mm|0|adj=on}}. "B" và "C" sẽ có trọng lượng choán nước trên {{convert|36000|LT|t|abbr=on}}, có thể đạt tốc độ tối đa {{convert|30,5|kn|mph km/h}} và vỏ giáp chịu đựng đạn pháo 14 inch; khác biệt chính giữa hai thiết kế này là dàn pháo chính của thiết kế "B" có mười hai khẩu {{convert|14|in|mm|0|adj=on}} trên các tháp pháo ba nòng, trong khi thiết kế "C" có tám khẩu [[Hải pháo 406 mm (16 inch)/45 caliber Mark 6|{{convert|16|in|mm|0|adj=on}}/45 caliber]] trên các tháp pháo nòng đôi. "A" là thiết kế duy nhất nằm trong giới hạn {{convert|35000|LT|t|adj=on|abbr=on}} của Hiệp ước Hải quân Washington vốn được tái xác nhận trong Hiệp ước Hải quân London thứ hai. Khi [[Văn phòng Đạn dược]] giới thiệu kiểu đạn pháo mới 16 inch (406 &nbsp;mm) "siêu nặng", các kiểu trên được tái thiết kế thành "A1", "B1" và "C1" nhằm tìm cách bảo vệ chống lại loại đạn pháo mới, nhưng điều này lại ảnh hưởng nặng nề cho trọng lượng choán nước: "A1" chỉ còn cách {{convert|500|LT|t|abbr=on|adj=on}} bên dưới mức giới hạn 35.000 tấn, trong khi hai kiểu kia lên đến gần {{convert|40000|LT|t|abbr=on|adj=on}}.<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=244}}</ref>
 
Cho dù những nghiên cứu ban đầu này đều là những [[thiết giáp hạm nhanh]], Ủy ban Tướng lĩnh chưa dứt khoát theo xu hướng tốc độ tối đa lớn hơn. Họ đặt ra những câu hỏi dành cho [[Học viện Chiến tranh Hải quân]], muốn biết quan điểm về lớp tàu mới sẽ là một chiếc "thông thường" tốc độ {{convert|23|kn|mph km/h|adj=on}} với dàn pháo chính gồm tám-chín khẩu pháo 406 &nbsp;mm (16 inch), hay là một trong các kiểu "A", "B" hoặc "C"?<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=248}}</ref>
 
Năm nghiên cứu thiết kế khác được thực hiện vào cuối [[tháng 9]] mang tên từ "D" đến "H"; chúng có đặc tính tốc độ tối đa từ {{convert|23|kn|mph km/h}} đến {{convert|30,5|kn|mph km/h}}, mang tám hoặc chín pháo {{convert|14|in|mm|0|adj=on}} hay {{convert|16|in|mm|0|adj=on}}, và một trọng lượng choán nước tiêu chuẩn từ {{convert|31500|LT|t|abbr=on}} đến {{convert|40500|LT|t|abbr=on}}. "D" và "E" là những dự định về một thiết giáp hạm nhanh mang pháo 406 &nbsp;mm (16 inch) và được bảo vệ chống cỡ pháo tương đương, nhưng trọng lượng rẽ nước của chúng lớn hơn mức mà Hiệp ước Hải quân Washington cho phép. "F" là một nỗ lực căn bản về một kiểu thiết giáp hạm lai tàu sân bay, với ba [[máy phóng máy bay|máy phóng]] trước mũi và tám khẩu {{convert|14|in|mm|0|adj=on}} phía đuôi tàu. Người ta cho rằng kiểu này đã được [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] [[Franklin D. Roosevelt|Franklin Delano Roosevelt]] ưa chuộng, nhưng vì tính năng của [[thủy phi cơ]] phóng lên từ máy phóng kém hơn đa số máy bay từ tàu sân bay hay từ đất liền do sức cản của các phao nổi mang theo, nó đã không được tiếp tục phát triển. "G" và "H" là những con tàu chậm hơn chỉ đạt {{convert|23|kn|mph km/h}} và chín khẩu {{convert|14|in|mm|0|adj=on}}; đặc biệt kiểu "H" được cho là một thiết kế khá cân bằng được phát triển bởi bộ phận Thiết kế Sơ thảo của [[Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa]]. Tuy nhiên, giờ đây Ủy ban Tướng lĩnh ưa chuộng "những con tàu nhanh, đa mục đích", mà "G" và "H" không đáp ứng được.<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=246–250}}</ref>
[[Tập tin:USS North Carolina overhead.jpg|nhỏ|trái|Thiết giáp hạm ''North Carolina'' nhìn từ trên không, ngày [[17 tháng 4]] năm [[1942]]|alt=A large battleship steams through choppy seas. Three floatplanes are located on the stern.]]
Những nghiên cứu này đã trình bày sự khó khăn mà các nhà thiết kế phải đối mặt. Trong phạm vi trọng lượng choán nước 35.000 tấn, có hai lựa chọn căn bản: một con tàu tương tự như "A1" vốn nhanh hơn (30 knot) nhưng trang bị hỏa lực và vỏ giáp nhẹ hơn so với thiết giáp hạm đương thời; hoặc một chiếc chậm hơn nhưng được trang bị pháo lớn hơn, cho dù trang bị vỏ giáp bảo vệ chống lại đạn pháo {{convert|16|in|mm|0|adj=on}} là cực kỳ khó. Bộ phận Thiết kế Sơ thảo tiếp tục thêm năm nghiên cứu khác vào [[tháng 10]]: "J", "J1", "K", "L" và "M", tất cả đều dựa trên kiểu "A" với vỏ giáp tăng cường thêm hoặc một phiên bản kiểu "B" thu nhỏ lại; đều sử dụng pháo {{convert|14|in|mm|0|adj=on}} và đạt được tốc độ từ {{convert|30|kn|mph km/h}} đến {{convert|30,5|kn|mph km/h}}. Hai kiểu đầu tiên có bốn tháp pháo, nhưng người ta có cảm giác rằng sắp xếp như vậy quá nặng và đòi hỏi một lượng vỏ giáp không thể chấp nhận được. "K" là sự phát triển từ "A1" như được nêu ở trên, có [[đai giáp]] chính dày {{convert|15|in|mm|adj=on}} và vỏ giáp sàn tàu {{convert|5,25|in|mm|adj=on}}, có được [[vùng miễn nhiễm]] trong phạm vi từ {{convert|19000|yd|mi km|abbr=on}} đến {{convert|30000|yd|mi km|abbr=on}} chống đỡ lại loại đạn pháo "siêu nặng" 356 &nbsp;mm (14 inch). Trong khi kiểu "K" được nội bộ Hải quân ưa chuộng, trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn 35.000 tấn như thiết kế dành quá ít chỗ cho những sai số hay mọi thay đổi hoặc cải tiến cho thiết kế trong tương lai. Cả kiểu "L" và "M" đều sử dụng tháp pháo bốn nòng để tiết kiệm trọng lượng tương tự như thiết giáp hạm Pháp [[Dunkerque (thiết giáp hạm Pháp)|''Dunkerque'']] trong khi vẫn mang 12 khẩu pháo; điểm khác biệt duy nhất là "M" tiết kiệm được {{convert|200|LT|t|abbr=on}} bằng cách có một tháp pháo phía sau thay vì cả ba tháp pháo đều hướng ra trước. Thay đổi về thiết kế này khiến lớp vỏ giáp sàn tàu tăng lên {{convert|4,75|in|mm|adj=on}} thay vì chỉ {{convert|4,5|in|mm|adj=on}} trên kiểu "L". Việc cắt giảm nhiều phần trên vỏ giáp được chấp nhận để đảm bảo thiết kế ở bên dưới giới hạn cho phép của Hiệp ước; nhưng ngay cả như vậy, cả hai thiết kế đều xấp xỉ giới hạn, và kiểu "L" bị vượt hơn giới hạn {{convert|45|LT|t|abbr=on}}.<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=247, 250–251}}</ref>
 
Nhiều sĩ quan thuộc Hải quân Hoa Kỳ ủng hộ việc đóng ba hoặc bốn chiếc kiểu [[tàu chiến-tuần dương]] để hộ tống các tàu sân bay và đối phó với [[Kongō (lớp thiết giáp hạm)|lớp tàu chiến-tuần dương ''Kongō'']] của Nhật Bản. Trong số này có Quyền [[Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ|Bộ trưởng Hải quân]] và [[Trưởng phòng tác chiến Hải quân]] Đô đốc [[William Harrison Standley|William Standley]], Chủ tịch Học viện Chiến tranh Hải quân [[William S. Pye]], một nhóm nhỏ các sĩ quan cao cấp tại các hạm đội, và năm hay sáu sĩ quan chịu trách nhiệm về kế hoạch chiến lược của [[Phòng Kế hoạch Chiến tranh]], mặc dù có ít nhất một sĩ quan tin rằng một cuộc không kích vẫn có khả năng đánh chìm được những chiếc ''Kongo''. Với tất cả các khuyến cáo trên, Ủy ban Tướng lĩnh chọn kiểu "K" để tiếp tục phát triển.<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=251–252}}</ref>
Dòng 77:
=== "I" đến "XVI-D" ===
[[Tập tin:USS North Carolina fires over bow.jpg|nhỏ|phải|''North Carolina'' bắn một loạt từ ba khẩu pháo của tháp pháo số 1|alt=Six large guns in two turrets are aimed directly forward; the far trio are elevated extremely high and have a large amount of smoke emanating from them]]
Thiết kế "I" đến "XVI-D" khác nhau đáng kể về mọi khía cạnh ngoại trừ trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn và tốc độ. Thiết kế "II" có trọng lượng choán nước {{convert|35743|LT|t|abbr=on}}, mọi thiết kế khác đều là 35.000 tấn, và chỉ có năm thiết kế dự định một tốc độ tối đa thấp hơn {{convert|27|kn|mph km/h}}; trong đó, chỉ có một thiết kế thấp hơn {{convert|26,5|kn|mph km/h}}: thiết kế "VII", với tốc độ {{convert|22|kn|mph km/h}}. Thiết kế "VII" quay trở lại một tốc độ chậm hơn để có được sự bảo vệ và hỏa lực mạnh hơn, với mười hai khẩu pháo {{convert|14|in|mm|0|adj=on}} trên các tháp pháo ba nòng; và như vậy thiết kế này chỉ đòi hỏi một công suất động cơ {{convert|50000|shp|MW}}{{#tag:ref|Yêu cầu về công suất thấp hơn tiếp theo là "X-A", "XI-A" và "XI-B", với 112.500 mã lực.<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=254-255}}</ref>|group=N}} và một chiều dài chỉ có {{convert|640|ft|m|abbr=on}}. Đa số các thiết kế khác đề nghị một chiều dài {{convert|710|ft|m|abbr=on}} hoặc {{convert|725|ft|m|abbr=on}}, cho dù có sáu thiết kế có chiều dài thay đổi giữa {{convert|660|ft|m|abbr=on}} và {{convert|690|ft|m|abbr=on}}. Tám thiết kế đầu tiên ("I"–"IV-C") mang chín khẩu pháo {{convert|14|in|mm|0|adj=on}}, nhưng cũng có nhiều phương án kết hợp khác được đề xuất, bao gồm cấu hình tám khẩu 14 inch trên hai tháp pháo bốn nòng, thiết kế "V" thậm chí có hai tháp pháo bốn nòng 406 &nbsp;mm (16 inch), hoặc tám khẩu 356 &nbsp;mm (14 inch) trên bốn tháp pháo nòng đôi trên thiết kế "VIA" và "VIB", và mười, mười một và mười hai khẩu pháo 356 &nbsp;mm (14 inch). [[Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa]] lưu ý với sự bực bội rằng họ được yêu cầu thiết kế một con tàu tương đương với chiếc [[tàu chiến-tuần dương]] [[HMS Hood (51)|HMS ''Hood'']] của Anh Quốc nhưng với một trọng lượng rẽ nước thấp hơn 5.000 tấn. Đây là kết quả của việc một số giới hạn an toàn thông thường bị hạ thấp hay loại bỏ hẳn, cùng với các vấn đề khác.<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=254–255, 259}}</ref>
 
Phiên bản "XVI" vào ngày [[20 tháng 8]] năm [[1936]] là một con tàu dài {{convert|714|ft|m|abbr=on}} đạt được tốc độ {{convert|27|kn|mph km/h}}, mà Văn phòng Đạn dược đã chỉ ra nhiều vấn đề nghiêm trọng. Các thử nghiệm trên mô hình cho thấy ở tốc độ cao, các cơn sóng phát sinh từ thiết kế của lườn tàu khiến cho nhiều phần thấp của con tàu bị thấm nước bao gồm cả hầm đạn. Vấn đề càng thêm phức tạp khi Văn phòng này khám phá ra những quả đạn pháo bắn trúng thấp hay bên dưới mực nước có thể gây ra vấn đề lớn khi tác chiến ở khoảng cách từ {{convert|10|nmi|mi km|abbr=on}} đến {{convert|15|nmi|mi km|abbr=on}}. Những vấn đề khác bao gồm một mối lo ngại về sự bảo vệ chống lại bom ném từ máy bay có thể không thích đáng, vì theo cách nhìn của Văn phòng, công thức dùng để tính toán hiệu quả của chúng là không thực tiễn, và một vách ngăn phía trước được vuốt thon nhọn bên dưới mực nước là một ý tưởng kém do những vấn đề đạn bắn trúng bên dưới mực nước; do đó một mũi tàu hầu như không bọc giáp có thể dễ dàng bị xuyên thủng. Giải pháp cho những vấn đề này hoàn toàn không khả thi; bổ sung thêm các tấm đắp vỏ giáp chung quanh hầm đạn có thể làm vô hiệu hóa hiệu quả của hệ thống phòng thủ chống ngư lôi, còn mở rộng đai giáp sâu hơn gần mũi và đuôi tàu sẽ khiến nó vượt quá giới hạn 35.000 tấn. Ủy ban Tướng lĩnh không ưa thích thiết kế này, cho đó "không phải ... là một thiết giáp hạm thực sự" do những vấn đề về tốc độ và vỏ giáp.<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=261–263}}</ref>
Dòng 102:
|Tập tin:North Carolina class scheme F.jpg|alt2=A line drawing of a ship with two stern gun turrets, both on the centerline, and catapults and a crane froward for aircraft|Thiết kế "F" là một nỗ lực theo cách khả thi nhằm kết hợp tàu sân bay và thiết giáp hạm; và rất thoải mái trong phạm vi giới hạn của hiệp ước khi trọng lượng choán nước tiêu chuẩn chỉ có {{convert|31750|LT|t ST}}. Ba [[máy phóng máy bay|máy phóng]] bố trí trước mũi, và một sàn chứa máy bay bên dưới chứa được mười [[máy bay ném bom]] với cánh xếp lại. Hai tháp pháo không thể [[bắn thượng tầng]] bố trí phía đuôi, mỗi chiếc được bố trí bốn khẩu pháo 355 mm (14 inch).<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=250}}</ref>
|Tập tin:North Carolina class scheme VII.jpg|alt3=A line drawing of a ship with four gun turrets-two mounted each fore and aft-a large superstructure with two high masts, and a catapult over the third turret.|Thiết kế "VII" quay trở lại thời kỳ thiết giáp hạm chậm; với tốc độ tối đa {{convert|22|knot|mph km/h}}, chỉ nhanh hơn {{convert|1|knot|mph km/h}} so với "thiết giáp hạm tiêu chuẩn" kiểu cũ. Trọng lượng tiết kiệm được của việc giảm tốc độ được dùng tăng cường hỏa lực và sự bảo vệ: "VII" có mười hai khẩu 355 mm (14 inch)/50 caliber trên bốn tháp pháo ba nòng và một [[vùng miễn nhiễm]] chống lại đạn pháo 14 inch trong khoảng 19,6-27,4 km (21.400-30.000 yard).<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=258}}</ref>
|Tập tin:North Carolina class scheme XVI.jpg|alt4=A line drawing of a ship that has three quadruple gun turrets, two in front and one in the rear. In between the turrets are the large conning tower, a tall mast, and a single large smoke stack.|Thiết kế "XVI" là một trong những đề nghị sau cùng; sau khi "XVI-C" bị loại bỏ, một phiên bản cải tiến của thiết kế này đã được chọn cho lớp ''North Carolina''. Có một vài thay đổi lớn giữa thiết kế này và phiên bản sau cùng. Ví dụ, mọi ống thoát khí được nhập vào hai thay vì một ống khói, và toàn bộ dàn pháo hạng hai 127 mm (5 inch)/38 caliber bố trí trên tháp pháo đôi, không có tháp pháo nòng đơn.<ref name ="Friedman263">{{Harvnb|Friedman|1985|p=263}}</ref>
}}
 
Dòng 111:
 
==== Dàn pháo chính ====
Được trang bị cho cả hai chiếc của lớp ''North Carolina'' cũng như cho [[South Dakota (lớp thiết giáp hạm) (1939)|lớp ''South Dakota'']] tiếp theo, chín khẩu pháo 305 &nbsp;mm (16 inch)/45 caliber là một phiên bản cải tiến của những khẩu pháo được trang bị cho [[Colorado (lớp thiết giáp hạm)|lớp ''Colorado'']], và được đặt tên là "Mark 6". Một thay đổi lớn so với các khẩu pháo cũ là khả năng của phiên bản Mark 6 có thể bắn kiểu [[đạn pháo xuyên thép]] mới {{convert|2700|lb|kg|abbr=off|adj=on}} được phát triển bởi Văn phòng Đạn dược. Khi được bắn bằng một liều thuốc phóng đầy đủ trên khẩu pháo mới nguyên, quả đạn pháo đạt được [[lưu tốc đầu đạn]] 2.300 &nbsp;ft/s (701 &nbsp;m/s); và với liều thuốc phóng tiết giảm, cùng quả đạn pháo đó được bắn ở tốc độ 1.800 &nbsp;ft/s (549 &nbsp;m/s). Tuổi thọ của nòng pháo, là số lượng xấp xỉ đạn pháo mà một khẩu pháo có thể bắn trước khi cần phải [[xẻ rảnh nòng pháo|xẻ rảnh]] lại hoặc thay thế, là 395 quả đạn pháo xuyên thép, cho dù nếu chỉ sử dụng trong thực hành con số này cao hơn đáng kể: 2.860 phát. Với khả năng xoay ở vận tốc 4 độ mỗi giây, mỗi tháp pháo có thể xoay tối đa một góc 150 độ cả hai bên mạn tàu. Các khẩu pháo có thể nâng lên một góc tối đa 45 độ; chỉ có tháp pháo số 1 và số 3 có thể hạ thấp một góc −2 độ, nhưng do vị trí bắn thượng tầng, các khẩu pháo của tháp pháo số 2 chỉ có thể hạ thấp đến 0 độ.<ref name="16/45">DiGiulian, "United States of America 16"/45 (40.6 cm) Mark 6"</ref>
 
Mỗi khẩu pháo có chiều dài chung {{convert|736|in|mm}}; trong đó nòng pháo có chiều dài {{convert|720|in|mm|adj=on}} và đoạn nòng có xẻ rãnh dài {{convert|616,9|in|mm|adj=on}}. Tầm bắn xa tối đa đối với đạn pháo xuyên thép hạng nặng sẽ đạt được ở góc nâng 45 độ là {{convert|36900|yd|mi km}}. Ở cùng góc nâng này, một quả [[đạn pháo công suất cao]] (HC: high capacity) nặng {{convert|1900|lb|kg|abbr=off|adj=on}} sẽ đi được {{convert|40180|yd|mi km|abbr=off}}. Khẩu pháo có trọng lượng {{convert|192310|lb|kg|abbr=on}} không tính đến khóa nòng; toàn bộ tháp pháo nặng hơn {{convert|3100000|lb|kg|abbr=on}}.<ref name="16/45"/>
Dòng 122:
Các khẩu pháo 5 inch/38 caliber hoạt động như những [[pháo đa dụng]]; đó là có thể bắn cả mục tiêu tàu nổi lẫn mục tiêu trên không với mức độ thành công thỏa đáng. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là nó có đặc tính phòng không yếu kém. Như được chứng tỏ trong cuộc thử nghiệm tác xạ vào năm [[1941]] thực hiện trên thiết giáp hạm ''North Carolina'', kiểu pháo này có khả năng nhất quán trong việc bắn rơi máy bay ở độ cao {{convert|12000|–|13000|ft|km|abbr=on}}, gấp đôi so với tầm bắn hiệu quả của kiểu pháo phòng không [[pháo 5 inch/25 caliber|{{convert|5|in|mm|adj=on}}/25 caliber]] đơn dụng trước đây.<ref name="5/38"/>
 
Mỗi khẩu pháo 5 inch/38 caliber nặng gần {{convert|4000|lb|kg}} không kể khóa nòng; toàn bộ tháp pháo nòng đôi nặng {{convert|156295|lb|kg|abbr=off}}. Mỗi khẩu pháo có chiều dài chung {{convert|223,8|in|mm}}, trong đó nòng pháo có chiều dài {{convert|190|in|mm}} và đoạn nòng có xẻ rãnh dài {{convert|157,2|in|mm}}. Khẩu pháo có thể bắn ra với lưu tốc đầu đạn khoảng 2,500–2,600 &nbsp;ft/s (762–792 &nbsp;m/s); và khoảng 4.600 quả đạn có thể bắn trước khi cần thay thế nòng súng. Góc nâng tối thiểu và tối đa của chúng là từ -15 đến 85 độ; nòng súng có thể nâng và hạ với tốc độ khoảng 15 độ mỗi giây. Các tháp pháo bố trí sát mũi và đuôi tàu có thể xoay từ -150 đến 150 độ; trong khi các tháp pháo còn lại bị giới hạn ở góc -80 đến 80 độ. Chúng có thể xoay ở tốc độ khoảng 25 độ mỗi giây.<ref name="5/38"/>
 
==== Vũ khí nhỏ hơn ====
[[Tập tin:Bofors firing USS Hornet.jpg|phải|nhỏ|Pháo phòng không [[Bofors 40 mm]] đang tác xạ trên tàu sân bay [[USS Hornet (CV-12)|''Hornet'']] vào năm [[1945]]|alt=The gun crew operating these guns; four men handle ammunition while another yells over the blast from the guns. Spent shell casings litter the deck below.]]
Số vũ khí nhỏ hơn còn lại trên hai chiếc thuộc lớp ''North Carolina'' bao gồm số lượng khác nhau [[pháo 28 mm (1,1 inch)/75 caliber]], [[M2 Browning|súng máy M2 Browning 0,50 caliber]], cùng pháo phòng không [[Bofors 40 mm]] và [[Oerkilon 20 mm]]. Cho dù các con tàu thoạt tiên chỉ trang bị bốn khẩu đội pháo 28 &nbsp;mm (1,1 inch) bốn nòng và mười hai súng máy 0,50 caliber, số này được bổ sung và nâng cấp đáng kể trong chiến tranh.<ref name="friedman276-277">{{Harvnb|Friedman|1985|p=276–277}}</ref>
 
Trên cả hai con tàu, hai khẩu đội pháo 28 &nbsp;mm (1,1 inch) bốn nòng được bổ sung vào vị trí hai đèn pha giữa tàu. Sau khi trúng phải ngư lôi vào năm [[1942]], ''North Carolina'' tháo dỡ chúng và bổ sung mười khẩu đội 40 &nbsp;mm bốn nòng. Mười bốn khẩu đội như vậy hiện diện vào [[tháng 6]] năm [[1943]], rồi một khẩu đội thứ mười lăm được bố trí bên trên tháp pháo chính số ba vào [[tháng 11]] năm đó. ''Washington'' giữ lại sáu khẩu đội 28 &nbsp;mm (1,1 inch) bốn nòng cho đến giữa năm [[1943]], khi thay thế chúng bằng mười khẩu đội 40 &nbsp;mm bốn nòng, rồi đến [[tháng 8]] nó có tổng cộng mười lăm khẩu đội. Cả hai con tàu giữ lại cấu hình này cho đến hết chiến tranh.<ref name="friedman276-277"/>
 
Súng máy 0,50 caliber không có tầm xa hay sức mạnh cần thiết để chiến đấu cùng máy bay hiện đại, và được dự định để thay thế bằng một số lượng tương đương pháo 20 &nbsp;mm, nhưng không có gì được thực hiện ngay từ những đề nghị đó. Trong thực tế, cả ''North Carolina'' và ''Washington'' trang bị pháo 20 &nbsp;mm và súng máy 0,50 caliber đến gần hết năm [[1942]]. Vào [[tháng 4]], ''North Carolina'' có bốn mươi pháo 20 &nbsp;mm và mười hai súng máy 0,50 caliber, trong khi ''Washington'' có mười hai pháo và mười hai súng máy tương ứng. Hai tháng sau, số lượng pháo 20 &nbsp;mm được giữ nguyên, nhưng bổ sung thêm mười hai súng máy 0,50 caliber. Đến [[tháng 9]], ''Washington'' có thêm hai mươi pháo 20 &nbsp;mm lên tổng cộng bốn mươi, nhưng năm khẩu được tháo bỏ cùng với tất cả súng máy 0,50 caliber không lâu sau đó khi trang bị hai khẩu đội pháo 28 &nbsp;mm (1,1 inch)/75 caliber. Trong đợt tái trang bị sau khi trúng phải ngư lôi, ''North Carolina'' được bổ sung sáu pháo 20 &nbsp;mm nhưng tất cả súng máy 0,50 caliber bị tháo bỏ. ''Washington'' có 64 khẩu 20 &nbsp;mm vào [[tháng 4]] năm [[1943]], trước khi một khẩu nòng đơn được thay thế bằng một khẩu đội bốn nòng, và ''North Carolina'' có 53 khẩu 20 &nbsp;mm vào [[tháng 3]] năm [[1944]]. Đến [[tháng 4]] năm [[1945]], ''North Carolina'' có 56 khẩu 20 &nbsp;mm, trong khi ''Washington'' có 75. Vào [[tháng 8]] năm [[1945]], cả hai con tàu có tám khẩu đội 20 &nbsp;mm nòng đôi; ''North Carolina'' có hai mươi khẩu nòng đơn, trong khi ''Washington'' mang một khẩu bốn nòng và 63 khẩu nòng đơn.<ref name="friedman277">{{Harvnb|Friedman|1985|p=277}}</ref>
 
=== Điện tử ===
[[Tập tin:USS Washington (BB-56) tower foremast view.jpg|nhỏ|phải|upright|Tháp ăn-ten phía trước của ''Washington'', như được thấy vào ngày [[18 tháng 8]] năm [[1942]] tại [[Xưởng hải quân New York]]; lưu ý bộ radar SG dò tìm mặt đất đặt trên đỉnh cột ăn-ten|alt=The tower is dominated by a large radar set; two long arms protrude from the side of the tower.]]
Được thiết kế trước thời đại của [[radar]], cả ''North Carolina'' lẫn ''Washington'' thoạt tiên đều được trang bị nhiều hệ thống [[kiểm soát hỏa lực]] và máy đo tầm xa quang học hoa tiêu dẫn đường. Hệ thống kiểm soát hỏa lực tồn tại cho đến năm [[1944]], khi được thay thế bằng radar sóng ngắn Mark 27, cho dù nó được bổ sung bởi một bộ radar kiểm soát hỏa lực dàn pháo chính Mark 3. Máy đo tầm xa quang học được tháo dỡ dành chỗ cho các khẩu đội 20 &nbsp;mm vào một lúc nào đó từ cuối năm [[1941]] đến giữa năm [[1942]]. Ngoài ra, các con tàu đi vào hoạt động với hai bộ kiểm soát hỏa lực Mark 38, một bộ radar [[CXAM]] dò tìm không trung, hai bộ Mark 3 và ba bộ Mark 4 dành cho dàn hỏa lực hạng hai.<ref name="Friedman276">{{Harvnb|Friedman|1985|p=276}}</ref>
 
Đến [[tháng 11]] năm [[1942]], ''North Carolina'' được trang bị thêm một bộ Mark 4 bổ sung và một bộ radar SG dò mặt đất. Một cấu hình thông thường dành cho thiết giáp hạm hiện diện trên ''North Carolina'' vào [[tháng 4]] năm [[1944]], với các radar SK (dò tìm không trung) và SG (dò tìm mặt đất), một bộ SG dự phòng, các bộ Mark 8 để kiểm soát dàn pháo chính. Mọi bộ Mark 4 còn lại dành cho dàn pháo hạng hai, và một trong những bộ Mark 3 cũ vẫn còn hiện diện, có thể để dự phòng cho các bộ Mark 8. Một đĩa SK-2 thay thế cho radar SK và các bộ Mark 12 và Mark 22 thay thế cho Mark 4 vào [[tháng 9]] năm đó. Ngoại trừ bộ SK-2, ''Washington'' cũng nhận được sự nâng cấp tương tự như vậy.<ref name="Friedman276"/>
Dòng 141:
 
=== Động lực ===
Những chiếc trong lớp ''North Carolina'' được trang bị bốn [[turbine hơi nước]] hộp số General Electric và tám nồi hơi Babcock & Wilcox kiểu ba nồi đun tốc hành. Hệ thống động lực của con tàu tích hợp nhiều phát triển mới nhất của thiết bị turbine, bao gồm hộp số giảm tốc xoắn ốc kép và kỹ thuật hơi nước áp lực cao. Các nồi hơi của ''North Carolina'' cung cấp hơi nước với áp lực 4.000 kPa (575 psi) ở nhiệt độ 454°C (850°F).{{#tag:ref|Để so sánh, nồi hơi trang bị cho những tàu tuần dương hạng nặng mới nhất vào lúc đó chỉ cung cấp áp lực 2.070 kPa (300 psi) ở nhiệt độ 300°C (572°F).<ref name=Whitley291/>|group=N}} Để đáp ứng yêu cầu một tốc độ tối đa 50 &nbsp;km/h (27 knot), hệ thống động cơ ban đầu được thiết kế để cung cấp công suất 115.000 mã lực (85,8 &nbsp;mW), nhưng những kỹ thuật mới được áp dụng đã giúp tăng lên 121.000 mã lực (90,2 MW). Cho dù có sự gia tăng về công suất, tốc độ tối đa của các con tàu vẫn không đổi, vì những cải biến cho hệ thống động cơ chỉ được tích hợp sau này trong quá trình thiết kế; các turbine đã được trang bị không thể tận dụng ưu điểm hơi nước có áp lực và nhiệt độ cao hơn, nên mức độ hiệu suất không cao như tiềm năng vốn có. Khi chạy lùi, động cơ có thể cung cấp công suất 32.000 mã lực (23,9 MW).<ref name=GD65/><ref name=Whitley291>{{Harvnb|Whitley|1998|p=291}}</ref>
[[Tập tin:No.2 machinery space of USS North Carolina (BB-55) during construction.jpg|220px|nhỏ|trái|Phòng động cơ số 2 của chiếc ''North Carolina'' đang được chế tạo, nhìn từ mạn trái con tàu, ngày [[16 tháng 1]] năm [[1939]]; nồi hơi số 4 vừa mới được lắp đặt|alt=A cavernous steel room, with two large rectangular boilers inside; a number of men are working on the machines.]]
Hệ thống động cơ được chia thành bốn phòng động cơ, tất cả đều được bố trí dọc theo trục giữa; mỗi phòng chứa một turbine và hai nồi hơi, và không có sự ngăn cách nào giữa các nồi hơi và turbine. Điều này được thực hiện nhằm giới hạn nguy cơ lật úp nếu như con tàu chịu đựng ngập nước nặng trong các phòng động cơ. Các phòng động cơ có cách sắp xếp được bố trí luân phiên: phòng động cơ thứ nhất và thứ ba có turbine đặt bên mạn phải và các nồi hơi tương ứng bên mạn trái, và được đảo lại trong các phòng động cơ thứ hai và thứ tư. Phòng động cơ đầu tiên ở phía trước vận hành trục chân vịt ngoài bên mạn phải, turbine thứ hai dẫn động trục chân vịt ngoài bên mạn trái, turbine thứ ba dành cho chân vịt trong bên mạn phải, và turbine thứ tư vận hành trục chân vịt ngoài bên mạn trái. Cả bốn chân vịt đều có bốn cánh; hai chân vịt phía ngoài có đường kính 4,674 m (15 &nbsp;ft 4 in) trong khi cặp phía trong có đường kính 5,067 m (16 &nbsp;ft 7,5 in). Việc chuyển hướng con tàu được điều khiển bởi một cặp bánh lái.<ref name=GD65/><ref name=Whitley291/>
 
Vào lúc đưa vào hoạt động, các con tàu có tốc độ tối đa {{convert|28|kn|mph km/h}}; cho dù đến năm [[1945]], cùng với việc bổ sung các thiết bị như là vũ khí phòng không, tốc độ tối đa của chúng giảm còn {{convert|26,8|kn|mph km/h}}. Sự gia tăng tải trọng cũng làm giảm tầm xa hoạt động. Vào năm [[1941]], chúng có thể di chuyển {{convert|17450|nmi|lk=in}} ở tốc độ đường trường {{convert|15|kn|mph km/h}}; vào năm [[1945]], tầm xa hoạt động giảm còn {{convert|16320|nmi|abbr=on}}. Nếu di chuyển ở tốc độ {{convert|25|kn|mph km/h}}, tầm xa bị giảm đáng kể, chỉ còn {{convert|5740|nmi|abbr=on}}.<ref name=GD65/>
Điện năng được cung cấp bởi tám máy phát điện, trong đó bốn chiếc là máy phát turbine được thiết kế riêng cho hải quân với công suất 1.250 &nbsp;kW mỗi chiếc, và bốn chiếc còn lại là máy phát diesel cung cấp 850 &nbsp;kW mỗi chiếc. Hai máy phát diesel khác nhỏ hơn mỗi chiếc có công suất 200 &nbsp;kW cung cấp nguồn năng lượng dự phòng khẩn cấp trong trường hợp hệ thống chính bị hư hỏng. Tổng công suất các máy phát điện, không kể máy phát dự phòng, là 8.400 &nbsp;kW dưới hình thức [[dòng điện xoay chiều]] điện áp 450 [[volt]].<ref name=GD65/>
 
=== Vỏ giáp ===
Dòng 153:
''North Carolina'' và ''Washington'' áp dụng vỏ giáp theo nguyên tắc "[[tất cả hoặc không có gì (vỏ giáp)|tất cả hoặc không có gì]]", chiếm 41% trọng lượng choán nước; nó bao gồm một "thành trì bọc thép" kéo dài từ ngay phía trước tháp pháo đầu tiên cho đến ngay phía sau tháp pháo sau cùng. Nó có một [[đai giáp]] dày đến {{convert|12|in|mm|adj=on}} ở phần giữa tàu, được đặt nghiêng 15°, và được lót thêm phía trong bằng một lớp thép tôi đặc biệt (STS: Special Treatment Steel) dày {{convert|0,75|in|mm|adj=on}}. Đai giáp được vuốt mỏng còn {{convert|6|in|mm|adj=on}} ở hai đầu của đai giáp. Con tàu có ba lớp sàn tàu bọc thép: sàn tàu chính dày {{convert|1,45|in|mm|adj=on}}, sàn thứ hai là sàn được bọc giáp dày nhất với độ dày {{convert|5|in|mm|adj=on}}, và sàn thứ ba cũng là sàn mỏng nhất với độ dày {{convert|0,62|in|mm|adj=on}}. Sàn thứ nhất được thiết kế để gây kích nổ các quả đạn pháo có kíp nổ chậm, trong khi lớp sàn tàu thứ hai dày nhất sẽ bảo vệ các thành phần thiết yếu bên trong con tàu. Lớp sàn tàu thứ ba được dự định để bảo vệ chống lại các mảnh đạn có thể xuyên thủng lớp sàn tàu thứ hai; và cũng hoạt động như lớp chống đỡ phía trên cho các [[vách ngăn chống ngư lôi]]. [[Tháp chỉ huy]] được nối liền với “thành trì bọc thép” bởi một ống liên lạc được bọc thép dày {{convert|14|in|mm|adj=on}}. Lớp vỏ giáp bảo vệ cho tháp chỉ huy có độ dày thay đổi từ {{convert|16|in|mm}} ở cả hai mặt hông cho đến {{convert|14,7|in|mm}} ở mặt trước và mặt sau; lớp vỏ giáp nóc dày {{convert|7|in|mm}} và lớp sàn dày {{convert|3,9|in|mm}}.<ref>{{Harvnb|Garzke|1976|p=52–53, 64}}</ref><ref name=Whitley290>{{Harvnb|Whitley|1998|p=290}}</ref>
 
Dàn pháo chính được bảo vệ bởi vỏ giáp rất dày: mặt trước của tháp pháo dày {{convert|16|in|mm|adj=on}}, các mặt hông dày {{convert|9|in|mm|adj=on}} trong khi mặt sau dày {{convert|11,8|in|mm|adj=on}} và nóc được bọc thép dày {{convert|7|in|mm|adj=on}}. Vỏ giáp dày cho đến {{convert|16|in|mm|adj=mid|-thick}} là độ dày tối đa mà các nhà máy có thể sản xuất được vào lúc thiết kế lớp tàu; tuy nhiên vào năm [[1939]], người ta đã có thể tạo ra những tấm thép dày đến {{convert|18|in|mm|adj=mid|-thick}}. Chúng đã không được trang bị, vì người ta ước lượng việc chuyển đổi sẽ trì hoãn thời hạn hoàn tất các con tàu thêm từ sáu đến tám tháng. Các bệ tháp pháo cũng được bảo vệ rất nặng: phần phía trước dày {{convert|14,7|in|mm}}, các mặt hông lên đến {{convert|16|in|mm}} trong khi mặt sau giảm xuống còn {{convert|11,5|in|mm|adj=on}}. Các tháp súng 127 &nbsp;mm (5 inch) cùng với hầm đạn của chúng được bọc thép tôi STS dày {{convert|1,95|in|mm|adj=on}}.<ref>{{Harvnb|Garzke|1976|p=53–54}}</ref>
 
Hệ thống bảo vệ bên (SPS) bao gồm năm ngăn kín được phân chia bởi các [[vách ngăn chống ngư lôi]] và một [[bầu chống ngư lôi]] lớn chạy suốt chiều dài của "thành trì bọc thép". Hai ngăn ngoài cùng, ngăn trong cùng và bầu chống ngư lôi được để trống, trong khi ngăn thứ ba và thứ tư được đổ đầy chất lỏng. Hệ thống này được giảm bớt chiều sâu ở hai đầu bên ngoài các tháp súng trước và sau. Tại các khu vực này, ngăn thứ năm bị hủy bỏ; thay vào đó, có một ngăn ngoài cùng để trống và hai ngăn đổ đầy chất lỏng, được dự phòng phía trong bởi một ngăn để trống khác. Để bù trừ cho hệ thống bảo vệ dưới nước bị cắt giảm, những phần này được tăng cường thêm thép tấm bổ sung, dày cho đến {{convert|3,75|in|mm|adj=on}}. Toàn thể hệ thống được thiết kế để chịu đựng đầu đạn nặng đến {{convert|700|lb|kg|abbr=on}} [[Trinitrotoluene|TNT]]. Việc bảo vệ dưới nước được hoàn tất bởi một đáy lườn tàu gồm ba lớp với bề dày tổng cộng {{convert|5,75|ft|m|abbr=on}}. Lớp ngăn đáy tàu dày {{convert|3|ft|m|abbr=on}} và được đổ đầy chất lỏng, trong khi lớp ngăn bên trên dày {{convert|2,75|in|mm|adj=on}} được giữ trống. Đáy tàu ba lớp này cũng được chia thành nhiều ngăn để giúp ngăn chặn ngập nước trong trường hợp lớp trên bị đánh thủng.<ref>{{Harvnb|Garzke|1976|p=54–55}}</ref>
Dòng 164:
Giá dự thầu của các hãng đóng tàu tư nhân bị ảnh hưởng nặng bởi việc áp dụng chính sách [[New Deal]]. [[Đạo luật Vincent-Trammell]] giới hạn lợi nhuận của một hãng đóng tàu ở mức 10%, trong khi [[Đạo luật hợp đồng dân sự Walsh-Healey]] quy định [[Mức lương tối thiểu tại Hoa Kỳ|mức lương tối thiểu]] và đòi hỏi những điều kiện làm việc dành cho công nhân. Đạo luật sau đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động thép của hải quân, vì nội dung của luật gây ra sự mâu thuẫn giữa giới chủ lãnh đạo công nghiệp, vốn rất không thích quy định 40 giờ làm việc mỗi tuần cùng mức lương tối thiểu dành cho công nhân, và với công nhân, vốn đang bị lôi kéo vào cuộc tranh luận riêng biệt giữa công đoàn của những người thợ lành nghề, [[Liên đoàn Lao động Hoa Kỳ]], với công đoàn của những công nhân không có tay nghề, [[Đại hội các Tổ chức Công nghiệp]]. Ở giữa tình trạng náo động này, Hải quân gặp khó khăn trong việc huy động 8.000 tấn (18 triệu pound) thép để chế tạo sáu [[tàu khu trục]] và ba [[tàu ngầm]]; trong khi một số lượng thép lớn hơn thế sẽ phải cần đến cho các thiết giáp hạm mới.<ref name=McBride1718>{{Harvnb|McBride|1997|p=417–418}}</ref>
 
Những vấn đều này, cùng với những thay đổi trong thiết kế và những vấn đề về lao động trong các xưởng đóng tàu – như một cuộc đình công tại hãng [[Federal Shipbuilding and Drydock Company]] vốn đang đóng hai tàu khu trục cho hải quân vào lúc đó – đã làm gia tăng giá thành của những chiếc thiết giáp hạm lên 60 triệu Đô la mỗi chiếc. Cho dù chi phí tăng đáng kể, [[Văn phòng Kỹ thuật Hàng hải]] cùng [[Văn phòng Chế tạo và sửa chữa]] đã đề xuất lên cấp trên của họ là nên chấp thuận đề nghị của những xưởng hải quân của chính phủ. Điều này được xác nhận, khi giá dự thầu của các hãng tư nhân được cho là bị thổi phồng quá mức. Hợp đồng chế tạo ''North Carolina'' và ''Washington'', những tên được chính thức chọn vào ngày [[3 tháng 5]] năm [[1937]], được trao cho các xưởng hải quân New York và Philadelphia tương ứng vào ngày [[24 tháng 6]] năm [[1937]]. Không lâu sau khi điều này được công bố, Roosevelt phải chịu đựng sự vận động hành lang quyết liệt của công dân và chính trị gia thuộc thành phố [[Camden, New Jersey|Camden]] và của tiểu bang [[New Jersey]], trong một nỗ lực vô vọng cuối cùng nhằm chuyển việc chế tạo chiếc ''North Carolina'' đến xưởng của hãng New York Shipbuilding tại Camden; một hợp đồng như vậy sẽ giúp giữ được công ăn việc làm cho nhiều người trong khu vực này. Roosevelt từ chối, nói rằng sự chênh lệch về giá là quá lớn; thay vào đó, công ty được nhận hợp đồng chế tạo hai chiếc [[tàu tiếp liệu khu trục]] vào [[tháng 12]] năm [[1937]]: [[USS Dixie (AD-14)|''Dixie'' (AD-14)]] và [[USS Prairie (AD-15)|''Prairie'' (AD-15)]].<ref name=McBride1718"Muir28"/><ref name="Muir28"McBride1718/>
 
Việc chế tạo lớp ''North Carolina'' bị chậm do những vấn đề về vật liệu đã đề cập bên trên, những thay đổi trong thiết kế căn bản – chủ yếu là việc nâng cỡ pháo từ 355 &nbsp;mm (14 inch) lên 406 &nbsp;mm (16 inch) – và yêu cầu phải tăng thêm cả chiều dài lẫn sức nặng của triền đà đang có tại các xưởng hải quân. Biện pháp tăng cường áp dụng kỹ thuật hàn được đề nghị như là cách làm giảm trọng lượng và gia cường cấu trúc thiết kế, vì nó có thể giúp làm giảm cấu trúc con tàu đến 10%, nhưng nó chỉ được sử dụng cho khoảng 30% con tàu. Chi phí liên quan đến hàn và việc kéo dài thời gian hoàn thành khiến cho kỹ thuật này trở nên không thực tế.<ref name=GD35>{{Harvnb|Garzke|1976|p=35}}</ref>
 
=== Những chiếc trong lớp ===
Dòng 197:
Sau một chuyến đi chạy thử máy tại khu vực [[biển Caribbe]] và tham gia các cuộc tập trận, ''North Carolina'' băng qua [[kênh đào Panama]] trên đường đi đến [[Mặt trận Thái Bình Dương]]. Gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 16, chiếc thiết giáp hạm đã hộ tống chiếc tàu sân bay [[USS Enterprise (CV-6)|''Enterprise'']] trong các cuộc [[Chiến dịch Guadalcanal|đổ bộ lên Guadalcanal]] và [[trận Tulagi và Gavutu–Tanambogo|Tulagi]] vào ngày [[7 tháng 8]] năm [[1942]], và tiếp tục tháp tùng chiếc tàu sân bay khi nó di chuyển về phía Đông Nam [[quần đảo Solomon]]. [[Trận chiến Đông Solomons]] bắt đầu khi các tàu sân bay Nhật bị phát hiện vào ngày [[24 tháng 8]] năm [[1942]]; và mặc dù máy bay Hải quân Mỹ đã tấn công trước tiên, đánh chìm được [[tàu sân bay hạng nhẹ]] [[Ryūjō (tàu sân bay Nhật)|''Ryūjō'']]; một cuộc không kích được tung ra từ một lực lượng khác, hình thành chung quanh hai tàu sân bay hạm đội [[Shōkaku (tàu sân bay Nhật)|''Shōkaku'']] và [[Zuikaku (tàu sân bay Nhật)|''Zuikaku'']], đã tấn công Lực lượng Đặc nhiệm 16. Trong trận đánh căng thẳng chỉ kéo dài tám phút, ''North Carolina'' đã bắn rơi từ 7 đến 14 máy bay đối và hầu như không bị hư hại, cho dù có bảy quả bom ném suýt trúng và một thủy thủ thiệt mạng do hỏa lực càn quét. ''Enterprise'' bị trúng ba quả bom.<ref name="ncdanfs"/>
[[Tập tin:Torpedo damage on USS North Carolina (BB-55), .October 1942.jpg|trái|nhỏ|240px|Một lổ thủng lớn trên lườn của chiếc ''North Carolina'' bởi [[ngư lôi]] phóng từ tàu ngầm Nhật [[I-15 (tàu ngầm Nhật)|''I-15'']], [[tháng 10]] năm [[1942]]|alt=The explosive force tore and dished in the steel side plating. A wooden scaffold has been erected to the right for repair work.]]
Sau đó ''North Carolina'' gia nhập lực lượng hộ tống cho tàu sân bay [[USS Saratoga (CV-3)|''Saratoga'']], và đã bảo vệ cho nó trong các hoạt động hỗ trợ cho lực lượng Mỹ đang trú đóng trên đảo [[Guadalcanal]]. Mặc dù nó đã né tránh được một quả ngư lôi vào ngày [[6 tháng 9]], nó không thể tránh được một quả khác vào ngày [[15 tháng 9]]. Trong số sáu quả ngư lôi của một loạt phóng từ tàu ngầm Nhật [[I-15 (tàu ngầm Nhật)|''I-15'']], ba quả trúng tàu sân bay [[USS Wasp (CV-7)|''Wasp'']], một quả trúng tàu khu trục [[USS O'Brien (DD-415)|''O'Brien'']], một quả bị trượt, và một quả đã trúng ''North Carolina''. Một đầu đạn nặng {{convert|660|lb|kg|abbr=on}} đã đánh trúng mạn trái con tàu ở độ sâu {{convert|20|ft|m|abbr=on}} bên dưới mực nước tại một điểm ngay phía sau tháp pháo số 1, tạo ra một lỗ hổng kích thước 9,8 × 5,5 m (32 × 18 &nbsp;ft), khiến khoảng {{convert|970|LT|t|abbr=on}} nước biển tràn vào con tàu vốn đòi hỏi phải khắc phục độ nghiêng bằng cách cho ngập đối xứng khiến nó bị ngập thêm {{convert|480|LT|t|abbr=on}}; cùng làm thiệt mạng năm người và bị thương hai mươi người khác. Cho dù ''North Carolina'' có thể tiếp tục di chuyển với tốc độ {{convert|24|kn|mph km/h}} sau khi bị đánh trúng, nó buộc phải chạy chậm lại sau đó ở tốc độ {{convert|18|kn|mph km/h}} nhằm đảm bảo các tấm thép che đỡ tạm thời không bị bung ra. Những hư hỏng về cấu trúc bên dưới tháp pháo số 1 khiến cho nó không thể bắn được trừ khi tuyệt đối cần thiết, và dàn [[radar]] chính cũng bị hỏng. Vì đây là lần đầu tiên một quả ngư lôi đánh trúng một thiết giáp hạm hiện đại của Hoa Kỳ, nó gợi ra một lượng lớn sự quan tâm từ nhiều sĩ quan và văn phòng khác nhau bên trong Hải quân Mỹ. Nó được xem là sự chứng minh bởi một số người tin rằng có quá nhiều thứ đã bị hy sinh trong thiết kế của con tàu, khi mà hệ thống phòng thủ chống ngư lôi đã gần bị xuyên thủng ở một trong những điểm quan trọng nhất của con tàu là hầm đạn, và Ủy ban Tướng lĩnh đã kêu gọi chiếc thứ năm và thứ sáu của [[Iowa (lớp thiết giáp hạm)|lớp ''Iowa'']]: [[USS Illinois (BB-65)|''Illinois'']] và [[USS Kentucky (BB-66)|''Kentucky'']], nên được trang bị bổ sung một [[bầu chống ngư lôi]] bên ngoài các hầm đạn. Tuy nhiên, [[Văn phòng Tàu chiến]] mới được thành lập đã phản đối quan điểm này, dựa trên lập luận trong mọi trường hợp hệ thống bảo vệ đã thể hiện đúng những gì nó cần phải làm, và đã không có sự cải tiến nào được thực hiện.<ref name="ncdanfs"/><ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=277 & 279}}</ref><ref>{{Harvnb|Garzke|1976|p=35, 38-39}}</ref><ref name=Whitley293-294>{{Harvnb|Whitley|1998|p=293-294}}</ref>
 
Sau khi được sửa chữa và tái trang bị tại các cơ sở ở [[Trân Châu Cảng]], ''North Carolina'' tiếp tục hoạt động như thành phần hộ tống cho các tàu sân bay ''Enterprise'' và ''Saratoga'' cho đến hết năm [[1942]] và hầu hết thời gian của năm [[1943]] trong khi chúng hỗ trợ cho các hoạt động chuyển quân và tiếp liệu tại quần đảo Solomon. Trong giai đoạn này, nó được nâng cấp các hệ thống [[kiểm soát hỏa lực]] và radar tiên tiến trong [[tháng 3]], [[tháng 4]] và [[tháng 9]] năm [[1943]] tại Trân Châu Cảng. Đến [[tháng 11]] năm [[1943]], ''North Carolina'' hộ tống cho ''Enterprise'' khi chiếc tàu sân bay tung ra các cuộc không kích xuống [[đảo san hô Makin|Makin]], [[Tarawa]] và [[Abemama]]. Từ ngày [[1 tháng 12|1]] đến ngày [[8 tháng 12]], nó bắn pháo xuống [[Nauru]] trước khi quay trở lại bảo vệ cho tàu sân bay; và nó tháp tùng chiếc [[USS Bunker Hill (CV-17)|''Bunker Hill'']] khi chiếc tàu sân bay này tiến hành không kích [[Kavieng]] và [[New Ireland (đảo)|New Ireland]].<ref name="ncdanfs"/><ref name=GD39>{{Harvnb|Garzke|1976|p=39}}</ref>
Dòng 205:
Vào cuối [[tháng 6]], ''North Carolina'' là một trong những tàu chiến Hoa kỳ đã tham gia cái gọi là "[[trận chiến biển Philippine|Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại]]", nơi hầu hết các máy bay Nhật Bản tấn công bị bắn hạ ngay trên không trung với thiệt hại rất ít về phía lực lượng phòng thủ Mỹ. Những vấn đề đối với các trục chân vịt đã buộc chiếc thiết giáp hạm phải quay trở về [[Xưởng hải quân Puget Sound]] để đại tu. Nó quay trở lại hoạt động vào [[tháng 11]] đảm trách nhiệm vụ hộ tống tàu sân bay đúng vào lúc lực lượng đặc nhiệm trải qua một cơn bão. ''North Carolina'' đã bảo vệ các tàu sân bay trong khi chúng hỗ trợ trên không cho hạm đội đổ bộ và tung các đợt không kích xuống [[Leyte]], [[Luzon]] và [[Visayas]]. Sống sót qua một [[Bão Cobra (1944)|cơn bão]] khác vốn đã nhấn chìm ba [[tàu khu trục]], ''North Carolina'' tiếp tục vai trò hộ tống khi máy bay hải quân tấn công [[Đài Loan]], [[Đông Dương]], [[Trung Quốc]], [[quần đảo Ryukyu]] và đảo [[Honshu]] trong [[tháng 1]] và [[tháng 2]] năm [[1945]]. Trong cuộc [[trận Iwo Jima|tấn công Iwo Jima]], chiếc thiết giáp hạm đã bắn pháo hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ trên bờ.<ref name="ncdanfs"/><ref>{{Harvnb|Garzke|1976|p=39-40}}</ref>
[[Tập tin:North carolina fireworks.jpg|nhỏ|phải|Pháo hoa trên bầu trời bên trên chiếc ''North Carolina'' (BB-55) vào năm [[2008]], nhân dịp lễ hội đánh dấu việc đưa chiếc tàu ngầm tấn công nguyên tử [[USS North Carolina (SSN-777)|''North Carolina'' (SSN-777)]] vào hoạt động|alt=Red and yellow fireworks fill the sky, as seen from the deck of the ship. The main guns loom directly overhead.]]
Trong cuộc [[trận Okinawa|tấn công lên Okinawa]], ''North Carolina'' đã hộ tống các tàu sân bay và bắn phá các vị trí đối phương trên bờ. Mặc dù đã bắn rơi được ba máy bay tấn công cảm tử [[kamikaze]], vào ngày [[6 tháng 4]] nó lại bị trúng một quả đạn pháo 127 &nbsp;mm (5 inch) trong một vụ bắn nhầm, làm thiệt mạng ba người và bị thương 44 người khác. Chiếc thiết giáp hạm đã bắn rơi một máy bay đối phương vào ngày [[7 tháng 4]] và hai chiếc khác vào ngày [[17 tháng 4]]. Sau một đợt đại tu khác thực hiện từ ngày [[9 tháng 5]] đến ngày [[28 tháng 6]], lần này là tại xưởng hải quân Trân Châu Cảng, ''North Carolina'' đã hoạt động cả trong vai trò hộ tống tàu sân bay lẫn bắn pháo bờ biển cho đến hết cuộc chiến. Nổi bật là cuộc bắn pháo vào ngày [[17 tháng 7]] vào khu vực công nghiệp tại [[Hitachi, Ibaraki]] cùng với các thiết giáp hạm đồng đội [[USS Alabama (BB-60)|''Alabama'']], [[USS Missouri (BB-63)|''Missouri'']], [[USS Wisconsin (BB-64)|''Wisconsin'']] và [[HMS King George V (41)|HMS ''King George V'']] cùng nhiều tàu chiến nhỏ khác.<ref name="ncdanfs"/><ref name=GD40>{{Harvnb|Garzke|1976|p=40}}</ref>
 
Vào [[tháng 8]], một số thành viên của ''North Carolina'' cùng các đội [[Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ|Thủy quân Lục chiến]] được gửi lên bờ để hỗ trợ cho cuộc [[chiếm đóng Nhật Bản]]. Sau khi [[Nhật Bản đầu hàng|Nhật chính thức đầu hàng]], nhóm này quay trở lại tàu và chiếc thiết giáp hạm khởi hành đi Okinawa. Như một phần của [[Chiến dịch Magic Carpet (Thế Chiến II)|Chiến dịch "Magic Carpet"]], các cựu chiến binh được nhận lên tàu để được hồi hương về Hoa Kỳ. Đi qua kênh đào Panama vào ngày [[8 tháng 10]], nó thả neo tại [[Boston]] vào ngày [[17 tháng 10]]. Sau một đợt đại tu tại Xưởng hải quân New York, nó tham gia các cuộc tập trận ngoài khơi [[New England]] trước khi thực hiện một chuyến đi huấn luyện học viên mới tại vùng biển [[Caribbe]].<ref name="ncdanfs"/>
 
''North Carolina'' được cho ngừng hoạt động tại [[Bayonne]], [[New Jersey]] vào ngày [[27 tháng 6]] năm [[1947]]; và ở lại trong [[hạm đội dự bị]] cho đến ngày [[1 tháng 6]] năm [[1960]], khi được cho rút khỏi danh sách [[Đăng bạ Hải quân]]. Không như hầu hết các thiết giáp hạm Hoa Kỳ khác bị tháo dỡ sau chiến tranh, ''North Carolina'' được bán lại cho [[Bắc Carolina|tiểu bang Bắc Carolina]] vào ngày [[8 tháng 8]] năm [[1961]] với giá 330.000 Đô la Mỹ<ref>[http://www.lib.unc.edu/ncc/ref/nchistory/jun2007/index.html University of North Carolina – USS North Carolina History]</ref> để trở thành một [[tàu bảo tàng]]. Chiếc thiết giáp hạm được mở cửa tại [[Wilmington, Bắc Carolina]] vào ngày [[29 tháng 4]] năm [[1962]], như một [[đài tưởng niệm]] mọi công dân tiểu bang North Carolina thuộc mọi ngành phục vụ đã ngã xuống trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được công nhận là một [[Địa điểm Lịch sử Quốc gia]] vào ngày [[1 tháng 1]] năm [[1986]],<ref name="nhlsum">{{citechú thích web | url=http://tps.cr.nps.gov/nhl/detail.cfm?ResourceId=1854&ResourceType=Structure | title=USS NORTH CAROLINA (Battleship) | accessdate=2007-10-03 | work=National Historic Landmark summary listing | publisher=National Park Service}}</ref><ref name="nrhpphotos">{{citation|url=http://pdfhost.focus.nps.gov/docs/NHLS/Photos/82004893.pdf|title=National Register of Historic Places Inventory-Nomination: USS North Carolina Photo set (13 photos, exterior and interior, from 1946 and 1981–1984)|date=undated |publisher=National Park Service}}</ref> nó vẫn tiếp tục ở tại đây, được duy trì bởi Ủy ban Thiết giáp hạm USS ''North Carolina'', một tổ chức phi lợi nhuận.<ref name="NCNVR">"''North Carolina''" in the Naval Vessel Register.</ref><ref name="ncdanfs"/><ref>{{Harvnb|Garzke|1976|p=40-41}}</ref>
 
=== ''Washington'' ===
Dòng 220:
''Washington'' cùng các con tàu khác của Lực lượng Đặc nhiệm 39 tiến hành tập trận cùng với Hạm đội Nhà cho đến cuối [[tháng 4]]. Cùng với các đơn vị Anh khác, lực lượng này rời quần đảo Anh Quốc như là Lực lượng Đặc nhiệm 99. Chúng hộ tống một số đoàn tàu vận tải Bắc Cực chuyển những hàng tiếp liệu tối cần thiết đến [[Liên Xô]]. Trong một lần thực hiện nhiệm vụ như vậy, chiếc thiết giáp hạm Anh [[HMS King George V (41)|''King George V'']] cùng đi đã vô tình húc phải một tàu khu trục khiến nó vỡ làm đôi và chìm nhanh chóng. Đi liền ngay phía sau tháp tùng cho ''King George V'', ''Washington'' băng qua đúng ngay vùng biển và phải chịu đựng hư hại của các vụ nổ từ các quả [[mìn sâu]] rơi ra từ chiếc tàu khu trục. Mặc dù sự hư hỏng gây ra cho lườn tàu chỉ là tối thiểu, giới hạn trong việc rò rỉ một thùng nhiên liệu, nhiều thiết bị tinh vi trên tàu bị hư hại, bao gồm máy đo tầm xa cho dàn pháo chính, các bộ ngắt điện, ba bộ kiểm soát hỏa lực cùng các radar dò tìm. Các tàu chiến Mỹ sau đó đi vào cảng [[Hvalfjörður]] tại [[Iceland]] vào ngày [[15 tháng 5]]; chúng quay trở lại Scapa Flow vào ngày [[3 tháng 6]]. Ngày [[4 tháng 6]], ''Washington'' đón lên tàu vị tư lệnh lực lượng hải quân Mỹ tại Châu Âu, Đô đốc [[Harold Rainsford Stark]], người đã cho đặt sở chỉ huy tạm thời của mình trên chiếc tàu chiến trong vài ngày. Vào ngày [[7 tháng 6]] năm 1942, [[George VI của Anh|Vua George VI]] [[Anh Quốc]] đã lên thị sát chiếc thiết giáp hạm.<ref name="washdanfs"/><ref name="Whitley295"/><ref>{{Harvnb|Garzke|1976|p=41 & 44}}</ref>
[[Tập tin:King George VI inspects the crew of USS Washington (BB-56), June 1942.jpg|nhỏ|trái|[[George VI của Anh|Vua George VI của Anh]] (''bên trái, hướng về máy ảnh'') đang duyệt qua các thủy thủ trên chiếc ''Washington'', ngày [[7 tháng 6]] năm [[1942]]. Một [[thủy phi cơ]] [[OS2U Kingfisher]] ở bên trên phía sau.|alt=Midshot with a large single engined propeller warplane in background. A man with military ribbons covering his chest-the King (see caption)-accompanied by navy officers walks down a lines of sailors who stand rigidly at attention.]]
''Washington'' rời khu vực Bắc Hải quay trở về Hoa Kỳ vào ngày [[14 tháng 7]] năm [[1942]] cùng với một lực lượng hộ tống bao gồm bốn tàu khu trục; và khi về đến xưởng hải quân New York vào ngày [[23 tháng 7]], nó thực hiện một đợt đại tu mất đến một tháng mới hoàn tất. Nó lên đường vào ngày [[23 tháng 8]] hướng đến [[kênh đào Panama]] rồi đi sang Thái Bình Dương, đi đến điểm dừng của nó là [[đảo Tonga]] vào ngày [[14 tháng 9]], nơi nó trở thành soái hạm của Đô đốc [[Willis Augustus Lee|Willis "Ching" Lee]]. Trong những tháng tiếp theo, ''Washington'' tập trung vào việc bảo đảm an toàn cho các đoàn tàu vận chuyển tiếp liệu và tăng cường cho lực lượng trú đóng tại [[Guadalcanal]]. Vào ngày [[13 tháng 11]], ba đội hình tàu chiến Nhật Bản được phát hiện đang trên đường hướng đến Guadalcanal, một trong số chúng nhắm vào mục đích bắn phá sân bay Henderson khi bóng tối vào ban đêm giúp bảo vệ chúng khỏi sự tấn công bằng máy bay. Lực lượng bắn phá thứ nhất của Nhật bị [[Hải chiến Guadalcanal#Trận hải chiến Guadalcanal thứ nhất, 13 tháng 11|đẩy lùi]] bởi một lực lượng tàu tuần dương - khu trục Mỹ. Vào ngày [[14 tháng 11]], phía Nhật tổ chức một cuộc tấn công bắn phá khác nhằm vô hiệu hóa sân bay chướng tai gai mắt này. ''Washington'' cùng thiết giáp hạm [[USS South Dakota (BB-57)|''South Dakota'']] và bốn tàu khu trục được gửi đến để [[Hải chiến Guadalcanal#Trận hải chiến Guadalcanal thứ hai, 14–15 tháng 11|đánh chặn lực lượng Nhật Bản]] trong đêm đó. Lực lượng Nhật Bản, bao gồm [[thiết giáp hạm nhanh]] [[Kirishima (thiết giáp hạm Nhật)|''Kirishima'']], hai tàu tuần dương hạng nặng, hai tàu tuần dương hạng nhẹ và chín tàu khu trục, thoạt tiên đã đánh chìm ba tàu khu trục Mỹ và gây hư hại đáng kể cho cấu trúc thượng tầng của ''South Dakota''. Tuy nhiên, ''Washington'' không bị phát hiện, và dàn hỏa lực dẫn đường bằng radar của nó đã đánh chìm một tàu khu trục và bắn trúng ''Kirishima''. Trong trận chiến hỗn loạn, ''Washington'' đã bắn 75 quả đạn pháo 406 &nbsp;mm (16 inch) và 107 quả 127 &nbsp;mm (5 inch), trong đó chín phát 406 &nbsp;mm (16 inch) đã đánh trúng ''Kirishima'', gây hư hại nặng đến mức không thể sửa chữa và khiến nó phải bị đánh đắm sáng hôm sau. Không lâu sau trận đánh này, lực lượng Nhật Bản bắt đầu triệt thoái khỏi Guadalcanal.<ref name="washdanfs"/><ref name="Whitley296">{{Harvnb|Whitley|1998|p=296}}</ref><ref>{{Harvnb|Garzke|1976|p=45-46}}</ref>
 
Cho đến [[tháng 4]] năm [[1943]], ''Washington'' tiếp tục ở lại khu vực gần căn cứ của nó ở [[New Caledonia]], bảo vệ các đoàn tàu vận tải và các nhóm chiến đấu hỗ trợ cho [[Chiến dịch Solomon]]. Quay trở về Trân Châu Cảng, nó tiến hành tập trận và trải qua một đợt đại tu trước khi quay trở lại khu vực chiến sự vào cuối [[tháng 7]]. Từ [[tháng 8]] đến cuối [[tháng 10]], ''Washington'' hoạt động ngoài khơi [[Efate]]. Sau đó nó cùng bốn thiết giáp hạm và sáu tàu khu trục tham gia hình thành nên Đội đặc nhiệm 53.2 để tập trận, có các tàu sân bay ''Enterprise'', [[USS Essex (CV-9)|''Essex'']] và [[USS Independence (CV-22)|''Independence'']] cùng tham gia. Sau đó Đội đặc nhiệm 52.2 lên đường hướng đến [[quần đảo Gilbert]] bổ sung thêm hỏa lực vào các cuộc tấn công đang diễn ra tại đây. Lên đường vào cuối [[tháng 11]], ''Washington'' trước tiên đi đến [[Makin (đảo)|Makin]] bảo vệ các tàu bè tại đây, rồi sau đó đến [[đảo Banaba]] để chuẩn bị nả pháo lên [[Nauru]] cùng với con tàu chị em ''North Carolina'', cả bốn chiếc thuộc [[South Dakota (lớp thiết giáp hạm) (1939)|lớp ''South Dakota'']] cùng các tàu sân bay [[USS Bunker Hill (CV-17)|''Bunker Hill'']] và [[USS Monterey (CVL-26)|''Monterey'']]. Tất cả những chiếc tàu chiến chủ lực đều đồng loạt nổ súng trước bình minh ngày [[8 tháng 12]]; và các tàu sân bay tiếp nối cuộc tấn công không lâu sau đó. Các con tàu sau đó lên đường quay trở về Efate, đến nơi vào ngày [[12 tháng 12]]. Vào ngày [[Giáng sinh]], ''Washington'', ''North Carolina'' và bốn tàu khu trục rời Efate để tiến hành huấn luyện tác xạ. Vào cuối [[tháng 1]] năm [[1944]], nó nằm trong thành phần Đội Đặc nhiệm 50.1 để hộ tống các tàu sân bay nhanh trong đội tung các cuộc không kích xuống [[Taroa]] và [[Kwajalein]]. Nó cũng di chuyển đến gần để tấn công Kwajalein bằng dàn pháo chính của nó trong ngày [[30 tháng 1]].<ref name="washdanfs"/><ref name=GD46>{{Harvnb|Garzke|1976|p=46}}</ref>
[[Tập tin:USS Washington (BB-56) damaged after her 1 Feb. 1944 collision with USS Indiana (BB-58).jpg|nhỏ|phải|Hư hại nặng cho mũi của chiếc ''Washington'' sau tai nạn va chạm với thiết giáp hạm [[USS Indiana (BB-58)|''Indiana'']]|alt=The bow of the ship, with several men standing aboard. A smaller warship is visible in the distance.]]
Trước lúc bình minh ngày [[1 tháng 2]] năm [[1944]], khi trời còn tối, ''Washington'' đã bị tai nạn va chạm với thiết giáp hạm [[USS Indiana (BB-58)|''Indiana'']] khi chiếc này tách khỏi đội hình để tiếp nhiên liệu cho bốn tàu khu trục. ''Indiana'' đã thông báo qua vô tuyến dự định của nó chuyển hướng qua mạn trái rời khỏi đội hình, nhưng không lâu sau khi bắt đầu bẻ lái, thuyền trưởng của nó ra lệnh quay lại hướng sang mạn phải. Bảy phút sau, nó được các quan sát viên trên ''Washington'' nhìn thấy ở khoảng cách {{convert|1000|yd|ft m|abbr=on}}. Mặc dù thủy thủ trên cả hai con tàu điên cuồng tìm cách né tránh; ''Washington'' vẫn đâm sượt vào chiếc ''Indiana'', gây hỏng một mảng lớn phía sau con tàu bên mạn phải. Mũi trước của ''Washington'' bị hỏng nặng, với khoảng {{convert|60|ft|m|abbr=on}} mũi tàu treo lơ lửng và một phần dưới nước. Mười người, trong đó có sáu của ''Washington'', thiệt mạng hay mất tích. Sau khi được gia cố tạm thời phần bị hư hại, chiếc thiết giáp hạm bị buộc phải quay về Trân Châu Cảng để gắn một mũi tàu giả, cho phép nó thực hiện chuyến đi đến [[Xưởng hải quân Puget Sound]] ở [[Wasington]]. Tại đây, nó được đại tu toàn diện cùng với một mũi tàu hoàn toàn mới, và công việc này kéo dài từ [[tháng 3]] đến [[tháng 4]]. ''Washington'' chỉ quay trở lại khu vực chiến sự vào cuối [[tháng 5]].<ref name="friedman277">{{Harvnb|Friedman|1985|p=277}}</ref><ref name="washdanfs"/><ref name=GD46/><ref>"Marshall Islands Campaign", Naval History and Heritage Command</ref>
 
''Washington'' kế tiếp tham gia vào [[Chiến dịch quần đảo Mariana và Palau]], một lần nữa phục vụ hộ tống cho các tàu sân bay, cho dù nó được cho tách ra vào ngày [[13 tháng 6]] để bắn phá các vị trí của quân Nhật tại [[Saipan]] và [[Tinian]]. Khi việc xuất phát một bộ phận lớn các tàu chiến còn lại của [[Hải quân Đế quốc Nhật Bản]] bị các tàu ngầm Mỹ phát hiện, ''Washington'', cùng với sáu thiết giáp hạm, bốn tàu tuần dương hạng nặng và mười bốn tàu khu trục đã bảo vệ các tàu sân bay của Lực lượng Đặc nhiệm 58; [[Trận chiến biển Philippines]] nổ ra vào ngày [[19 tháng 6]] khi một số lượng lớn máy bay từ các tàu sân bay đối phương tổ chức không kích vào hạm đội Mỹ. Sau khi đánh lui các đợt tấn công, ''Washington'' tiếp nhiên liệu rồi tiếp tục hộ tống các tàu sân bay cho đến khi nó đượ tách ra cùng ba thiết giáp hạm và các tàu hộ tống để hình thành một đội đặc nhiệm mới. Sau một chặng dừng kéo dài tại [[đảo san hô Enewetak]], nó hỗ trợ cho các cuộc tấn công đổ bộ lên [[Peleliu]] và [[Angaur]] trước khi quay lại nhiệm vụ hộ tống. Nhiệm vụ này kéo dài từ ngày [[10 tháng 10]] năm [[1944]] cho đến ngày [[17 tháng 2]] năm [[1945]].<ref name="washdanfs"/><ref name=GD47>{{Harvnb|Garzke|1976|p=47}}</ref>
Dòng 232:
== Các cải biến và đề xuất hiện đại hóa sau chiến tranh ==
[[Tập tin:USS Washington (BB-56) in Puget Sound, 10 September 1945.jpg|240px|nhỏ|phải|''Washington'' di chuyển hết tốc độ ngoài khơi [[Puget Sound]] khi chạy thử máy sau đại tu, [[10 tháng 9]] năm [[1945]]|alt=A large gray warship plows through the sea, creating a large frothy wake.]]
Sau chiến tranh, ''North Carolina'' và ''Washington'' được giữ lại hoạt động thường trực trong một thời gian ngắn, có thể là do chúng rộng rãi thoải mái ít chật chội hơn so với bốn chiếc lớp ''South Dakota''. Các con tàu có một số thay đổi trong giai đoạn này; [[Ủy ban Đặc tính Tàu chiến]] (SCB: Ship Characteristics Board) ra chỉ thị vào [[tháng 6]] năm [[1946]] tháo dỡ bốn khẩu đội 40 &nbsp;mm bốn nòng, cho dù trong thực tế chỉ có hai khẩu đội được tháo bỏ. Số vũ khí 20 &nbsp;mm cũng được giảm bớt ở một số vị trí nên cả hai con tàu ngừng hoạt động chỉ với 16 khẩu đội nòng đôi. ''North Carolina'' và ''Washington'' được cho ngừng hoạt động vào ngày [[27 tháng 6]] năm [[1947]] và được đưa về [[Hạm đội Dự bị]].<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=389–390, 421}}</ref>
Vào [[tháng 5]] năm [[1954]], Ủy ban SCB thảo ra một dự án cải tiến dành cho lớp ''North Carolina'' bao gồm bổ sung 24 khẩu [[pháo 76 mm (3 inch)/50 caliber]] điều khiển bởi sáu bộ [[Hệ thống điều khiển hỏa lực|điều khiển hỏa lực Mark 56]]. Một tháng sau, Chủ tịch Ủy ban SCB phát biểu niềm tin của ông là các lớp ''North Carolina'' và ''South Dakota'' sẽ là bổ sung hữu ích cho các lực lượng đặc nhiệm - nếu như chúng nhanh hơn. Văn phòng Tàu chiến sau đó đã xem xét và hủy bỏ các thiết kế đề nghị nâng tốc độ tối đa con tàu lên {{convert|31|kn|mph km/h}}, nhanh hơn 4 knot so với tốc độ duy trì hiện tại. Để ''North Carolina'' có được tốc độ 31 knot, cần có hệ thống động lực công suất 240.000 mã lực. Điều này, đến lượt nó, đòi hỏi trang bị một hệ thống động cơ cực lớn không thể gắn vừa với con tàu ngay cả khi tháo bỏ tháp pháo thứ ba. Nếu [[đai giáp]] bên ngoài được tháo bỏ, cũng còn cần đến công suất 216.000 mã lực. Tuy nhiên, bất kể là có tháo dỡ đai giáp hay không, toàn bộ kiểu dáng của lườn tàu ở phía đuôi sẽ phải cải biến đáng kể để chấp nhận kiểu chân vịt lớn hơn. Đòn cuối cùng đánh vào dự án là cái giá 40 triệu Đô la mỗi chiếc chưa tính đến chi phí tái kích hoạt lại những chiếc thiết giáp hạm vốn đã bị bỏ xó đến mười năm.<ref name=Friedman397>{{Harvnb|Friedman|1985|p=397}}</ref>
 
Các tính toán sau đó cho thấy những chiếc lớp ''North Carolina'' có thể làm nhẹ đi từ {{convert|44377|LT|t|abbr=on}} xuống còn khoảng {{convert|40541|LT|t|abbr=on}}, và một công suất 210.000 mã lực là đủ. Với một con số tải trọng thử nghiệm 38.400 tấn, thậm chí 186.000 mã lực cũng đã đủ cho nó; con số 210.000 mã lực được đưa ra là do ước lượng cộng thêm 12,5% dự phòng cho trường hợp đáy tàu bị bám hà hay thời tiết xấu. Một hệ thống động lực tương tự như kiểu dành cho lớp ''Iowa'' công suất 212.000 mã lực sẽ phù hợp, và nếu như tháo dỡ tháp pháo thứ ba, sẽ không có vấn đề gì về trọng lượng; nhưng lại không có đủ chỗ bên trong những chiếc ''North Carolina''. Khi so sánh, hệ thống động lực hiện hành có kích thước 53,6×21,3×7,3 m (176×70×24 &nbsp;ft), trong khi của lớp ''Iowa'' là 78×21,9×7,9 m (256×72×26 &nbsp;ft). Cuối cùng, còn có một vấn đề về kích thước của chân vịt; lớp ''Iowa'' có chân vịt đường kính {{convert|19|ft|m|abbr=on}}, trong khi của lớp ''North Carolina'' là {{convert|17|ft|m|abbr=on}}. Cuối cùng, không có sự cải biến nào được thực hiện.<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=397–398}}</ref>
 
Thiết kế [[tàu sân bay trực thăng]] cũng dành một phương án cải biến từ những chiếc ''North Carolina''. Với chi phí 30.790.000 Đô la, các con tàu sẽ có khả năng chở theo 28 [[máy bay trực thăng]], 1.880 binh lính, {{convert|530|LT|t|abbr=on}} hàng hóa và {{convert|200000|USgal|L|abbr=on}} dầu. Mọi khẩu pháo 16-inch và 5-inch sẽ được tháo dỡ, cho dù tháp pháo số 1 sẽ được giữ lại để cân bằng với trọng lượng thêm vào phần nữa phía sau của con tàu. Thay vào đó, con tàu sẽ được trang bị 16 pháo 76 &nbsp;mm (3 inch) trên những tháp pháo nòng đôi. Trọng lượng choán nước của con tàu sẽ giảm đi đôi chút với trọng lượng đầy tải khoảng {{convert|41930|LT|t|abbr=on}}, trong khi tốc độ tối đa sẽ không đổi. Người ta ước tính con tàu sẽ phục vụ trong khoảng 15 đến 20 năm với chi phí bảo trì hàng năm khoảng 440.000 Đô la. Tuy nhiên, người ta khám phá rằng một chiếc tàu sân bay trực thăng chế tạo theo mục đích sẽ kinh tế hơn, và dự án bị xếp lại.<ref>{{Harvnb|Friedman|1985|p=401}}</ref>
 
== Tham khảo ==
Dòng 246:
{{reflist|2}}
=== Thư mục sách ===
* {{citechú bookthích sách | last=Friedman | first=Norman | year=1985 | title=U.S. Battleships: An Illustrated Design History | publisher=Naval Institute Press | location=Annapolis, Maryland | isbn=0-87021-715-1 | oclc=12214729 | ref=harv}}
* {{citechú bookthích sách | last1=Garzke | first1=William H. | last2=Dulin | first2=Robert O. | year=1976 | title=Battleships: United States Battleships in World War II | publisher=Naval Institute Press | location=Annapolis, Maryland | isbn=0-87021-099-8 | oclc=2414211 | ref=harv}}
* {{citechú journalthích tạp chí | last=McBride | first=William H. | year=1997 | title=The Unstable Dynamics of a Strategic Technology: Disarmament, Unemployment, and the Interwar Battleship | journal=Technology and Culture | volume=38 | issue=2 | pages=386–423 | jstor=3107127 | issn=0040165X | oclc=38122975 | ref=harv }}
* {{citechú journalthích tạp chí | last=Muir | first=Malcolm, Jr. | year=1980 | title=Gun Calibers and Battle Zones: The United States Navy's Foremost Concern During the 1930s | journal=Warship International | volume=17 | issue=1 | pages=24–35 | issn=00430374 | oclc=1647131 | ref=harv}}
* "[http://www.history.navy.mil/danfs/n6/north_carolina-iii.htm ''North Carolina'']" in the ''[[Dictionary of American Naval Fighting Ships]]''. [[Naval History & Heritage Command]]. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2009.
* {{citechú bookthích sách | last=Whitley | first=M.J. | year=1998 | title=Battleships of World War Two: An International Encyclopedia | publisher=Naval Institute Press | location=Annapolis, Maryland | isbn=1-55750-184-X | oclc=40834665 | ref=harv}}
* "[http://www.history.navy.mil/danfs/w3/washington-viii.htm ''Washington'']" in the ''Dictionary of American Naval Fighting Ships''. Naval History & Heritage Command. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2009.
=== Tài liệu trực tuyến ===
Dòng 268:
* Mohl, Michael. "[http://www.navsource.org/archives/01idx.htm Post-Dreadnought Battleships]". NavSource History. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2009.
* "[http://www.youtube.com/watch?v=F3cdPvnL0Ys Top Ten Fighting Ships; North Carolina class battleship]". Military Channel. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2009.
 
 
{{Sao chọn lọc}}
Hàng 279 ⟶ 278:
[[Thể loại:Thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ]]
[[Thể loại:Thiết giáp hạm trong Thế Chiến II]]
 
{{Liên kết chọn lọc|en}}
 
[[cs:Třída North Carolina]]
[[de:North-Carolina-Klasse]]