Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tổ chức Nghiên cứu thiên văn châu Âu tại Nam Bán cầu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Thay tập tin Planetary_system_Gliese_581_Artist's_impression.jpg bằng tập tin Gliese_581_Artist's_impression.jpg.
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n chú thích, replaced: {{cite web → {{chú thích web
Dòng 27:
* [[Đài quan sát La Silla]]
* [[Đài quan sát Paranal]], nơi đặt [[Kính thiên văn rất lớn]]
* [[Đài quan sát Llano de Chajnantor]], nơi đặt kính thiên văn dưới milimét APEX (Atacama Pathfinder Experiment submillimetre telescope) và đặt ALMA, dãy kính thiên văn lớn bước sóng milimét Atacama (Atacama Large Millimeter Array), hiện tại đang được xây dựng trong dự án hợp tác giữa các nước Đông Á ([[Nhật Bản]] và [[Đài Loan]]), châu Âu (ESO), Bắc Mỹ ([[USA]] và [[Canada]]), và [[Chile]].
 
Một trong những dự án đầy tham vọng của ESO là [[Kính thiên văn cực lớn châu Âu]] (E-ELT), một kính thiên văn đường kính 42 [[mét|m]] dựa trên thiết kế sáng tạo 5-gương, tiếp nối khái niệm về kính thiên văn khổng lồ (Overwhelmingly Large Telescope) (OWL). Khi hoàn thành, kính E-ELT sẽ là kính thiên văn quang học/gần hồng ngoại lớn nhất trên thế giới. ESO đã khởi động giai đoạn thiết kế kính năm 2006 với dự định bắt đầu xây dựng vào năm 2011. E-ELT có thể hoàn thành vào năm 2018.<ref name="About ESO"/>
Dòng 43:
== La Silla ==
 
[[Đài quan sát La Silla]], nằm cách [[Santiago de Chile]] 600 &nbsp;km về phía bắc trên độ cao 2.400 mét so với mực nước biển, đã được đi vào hoạt động từ những năm 1960. Tại đây, ESO cho hoạt động các loại kính đường kính 4 m trên thế giới. Từng có khoảng 18 kính thiên văn đặt tại đây, và vẫn còn ba kính còn hoạt động phục vụ cho cộng đồng thiên văn:<ref name="Lasilla">[http://www.eso.org/public/teles-instr/lasilla.html The La Silla Observatory]</ref>
 
=== Kính thiên văn 2,2 m MPG/ESO ===
 
Kính thiên văn 2,2 mét đã hoạt động ở La Silla từ đầu năm 1984 dưới sự đóng góp ngân sách ban đầu của [[Max-Planck-Gesellschaft]] (MPG). Sau đó chương trình khai thác sử dụng kính được chia sẻ giữa MPG và ESO, trong khi chịu trách nhiệm duy trì và chi phí hoạt động thuộc về ESO. Các thiết bị gắn với kính bao gồm một [[phổ kế]] và camera trường rộng ( wide-field [[CCD]] imager) có khả năng chụp một phần lớn bầu trời chỉ trong một khoảng thời gian phơi sáng. Năm 2007, một thiết bị thứ ba đã được thêm vào, GROND, cho phép chụp được đồng thời trong 7 màu.<ref>[http://www.eso.org/public/teles-instr/lasilla/mpg22.html MPG/ESO 2.2-metre Telescope]</ref> Kính thiên văn này được sử dụng để phát hiện các [[chớp gamma|bùng phát tia gamma]].<ref>[http://www.eso.org/public/outreach/press-rel/pr-2007/pr-30-07.html www.eso.org - Press release]</ref> Ảnh thu được từ kính cũng được sử dụng trong dự án [[Euronear]]. Vào tháng 11/2010, các nhà thiên văn thông báo đã phát hiện ra hành tinh ngoại hệ có nguồn gốc ngoài dải [[Ngân Hà]], [[HIP 13044 b]], nhờ quan sát qua kính 2,2 m MPG/ESO.<ref name="Bowdler2010-11-18">
{{citechú thích web
| last = Bowdler
| first = Neil
Dòng 78:
[[Tập tin:The VLT´s Laser Guide Star.jpg|thumb|Laser định hướng của VLT]]
[[Tập tin:Rare 360-degree Panorama of the Southern Sky.jpg|thumb|Ảnh Panorama 360 độ của bầu trời bán cầu nam.]]
Cơ sở chính tại Paranal là [[Kính thiên văn rất lớn]] (VLT), cơ sở chủ đạo của các đài quan sát Châu Âu mặt đất trong buổi đầu của thiên niên kỷ thứ ba.<ref name="VLT"/> Đây là một trong những kính thiên văn quang học tiên tiến nhất thế giới, bao gồm bốn kính gần như giống nhau có đường kính 8,2 m; mỗi kính được gắn hai hoặc ba thiết bị, giúp cho mỗi kính thiên văn linh hoạt được mục tiêu nghiên cứu.<ref name="VLT"/> Các kính có tên gọi lần lượt là Antu, Kueyen, Melipal và Yepun; chúng có thể hoạt động cùng với nhau, thành một nhóm hai hoặc ba (với trợ giúp của các kính thiên văn phụ 1,8 m), tạo thành một ''giao thoa kế'' khổng lồ, gọi là Giao thoa kế kính thiên văn rất lớn ESO (VLTI), cho phép các nhà thiên văn học nhìn thấy được các chi tiết nhỏ gấp 25 lần so với khi quan sát bằng các kính đơn lẻ.<ref name="VLT"/> Chùm tia sáng được kết hợp trong VLTI nhờ sử dụng một hệ gương phức tạp đặt trong đường hầm dưới mặt đất sao cho đường đi của các tia sáng phải bằng nhau với sai số nhỏ hơn 1/1000 &nbsp;mm trên 100 mét. Với độ chính xác này, VLTI có thể tái dựng lại hình ảnh với độ phân giải góc cỡ miligiây cung, tương đương với khả năng phân biệt được 2 ngọn đèn phía trước xe hơi khi chiếc xe đặt trên [[Mặt Trăng]].<ref name="VLT">[http://www.eso.org/public/teles-instr/vlt.html The Very Large Telescope]</ref>
 
Bốn kính thiên văn phụ 1,8-m (ATs) đã được thêm vào VLTI với mục tiêu có thể biến bốn kính VLT thành một kính khổng lồ phục vụ cho các mục đích nghiên cứu. Những kính ATs được lắp đặt từ 2004 đến 2007. Thống kê từ 2007, có khoảng 500 bài báo khoa học đã trích dẫn dữ liệu từ VLT.<ref>[http://www.eso.org/sci/libraries/ www.eso.org - Science Library]</ref>
Dòng 84:
'''''Tên gọi của bốn kính thiên văn có ý nghĩa gì?'''''
 
Vào tháng ba năm 1999, ở thời điểm khánh thành cơ sở Paranal, bốn tên gọi bằng ngôn ngữ Mapuche (Mapudungun) cho các thiên thể trên bầu trời đã được chọn. Đây là ngôn ngữ của bộ tộc sống ở vùng phía nam sông Bio-Bio, cách [[Santiago de Chile]] 500 &nbsp;km về phía nam.<ref name="Names of VLT"/>
 
Một cuộc thi lựa chọn tên gọi và viết về ý nghĩa của chúng đã được tổ chức cho học sinh của Vùng II Chile mà Antofagasta là thủ phủ. Ban giám khảo đã nhận được rất nhiều bài viết hay về các di sản giàu văn hóa của đất nước Chile. Ban giám khảo đã thống nhất trao giải cho Jorssy Albanez Castilla 17 tuổi đến từ Chuquicamata gần thành phố Calama. Cô nhận được giải thưởng là một chiếc kính thiên văn nghiệp dư được trao trong ngày khánh thành đài quan sát Paranal.<ref name="Names of VLT"/>
Dòng 91:
* ANTU (UT1; Mặt Trời)
* KUEYEN (UT2; Mặt Trăng)
* MELIPAL (UT3; Thập tự phương nam)
* YEPUN (UT4; Sao Kim - hay sao mai hoặc sao hôm)
 
Dòng 106:
[[Tập tin:Three ALMA antennas close together on Chajnantor.jpg|thumb|Ba ăngten ALMA ở Chajnantor]]
[[Tập tin:ALMA antenna en route.jpg|thumb|Một ăngten ALMA trên đường đến cao nguyên Chajnantor rong lần đầu]]
[[Đài quan sát Llano de Chajnantor]] là đài quan sát đặt cao nhất so với mực nước biển, đặt ở cao độ 5.100 m ở cao nguyên Llano de Chajnantor trong [[sa mạc Atacama]], cách [[San Pedro de Atacama]] 50 &nbsp;km về phía đông.<ref name="ALMA">[http://www.eso.org/public/teles-instr/alma.html ALMA]</ref>
 
Đây là một nơi có không khí rất khô - con người không thể ở đây được - nhưng lại là một nơi tuyệt vời cho thiên văn dưới milimét. Do các [[phân tử]] [[hơi nước]] trong [[khí quyển Trái Đất]] hấp thụ và làm suy hao bức xạ bước sóng dưới milimét cho nên một nơi khô ráo là cần thiết cho thiên văn vô tuyến.
Dòng 118:
ESO điều hành kính Atacama Pathfinder Experiment, APEX, trong sự hợp tác với [[Viện thiên văn vô tuyến Max Planck]] (ở [[Bonn]], [[Đức]]) và đài quan sát không gian Onsala (ở [[Onsala]], [[Thụy Điển]]). APEX là kính thiên văn vô tuyến dưới milimét có đường kính lớn nhất hoạt động ở bán cầu nam.<ref>[http://www.eso.org/public/teles-instr/apex.html APEX telescope]</ref> Nó có thể dùng làm kính thử nghiệm cho ALMA, Atacama Large Millimeter Array, một mảng kính thiên văn vô tuyến giao thoa của ESO, cùng với các đối tác khác trên thế giới, hiện tại đang được xây dựng và thử nghiệm ở cao nguyên Chajnantor.<ref name="ALMA"/> APEX là một kính dựa trên nguyên mẫu của ăngten ALMA, đã được thay đổi để hoạt động như là một [[kính thiên văn vô tuyến]] dưới milimét riêng rẽ.
 
ALMA sẽ là sự thiết kế cách mạng về giao thoa kế thiên văn học, bao gồm 66 ăngten chính xác cao, hoạt động ở bước sóng 0,3 &nbsp;mm đến 9,6 &nbsp;mm. Mảng chính của nó gồm 50 ăngten đường kính 12 m, hoạt động cùng nhau tạo thành một [[giao thoa kế]]. Ngoài ra còn có một mảng bốn kính 12 &nbsp;mm và mười hai kính đường kính 7 m. Các ăngten sẽ trải rộng trên cao nguyên sa mạc với khoảng cách từ 150 m đến 16 &nbsp;km, mang lại khả năng thay đổi độ phóng đại của ALMA.<ref name="ALMA"/> Nó sẽ cho phép khám phá Vũ trụ ở bước sóng milimét và dưới milimét với độ nhạy và phân giải chưa từng có, cao gấp 10 lần [http://www.spacetelescope.org/ kính không gian Hubble], và bổ sung cho hình ảnh thu được từ giao thoa kế VLT. [http://www.eso.org/public/videos/eso0935e/ Video về xe vận chuyển kính ALMA] cho thấy cách di chuyển của kính.
 
== Lịch sử ==
Dòng 174:
| 29 tháng 12, 2010
|}
 
 
{| class="wikitable"
Hàng 215 ⟶ 214:
Giống như phương pháp xác định niên đại bằng đồng vị [[cacbon]], nhưng đối với khoảng thời gian lớn hơn, 'đồng hồ' [[Uranium]] này cho phép đo được tuổi của ngôi sao. Kết quả thu được là ngôi sao có độ tuổi 12,5 tỷ năm. Vì ngôi sao không thể già hơn Vũ trụ được, do đó tuổi của Vũ trụ phải lớn hơn giá trị này. Điều này phù hợp với các đo đạc khác (dựa vào bức xạ nền vũ trụ) và những mô hình vũ trụ học, cho độ tuổi Vũ trụ có giá trị bằng 13,7 tỷ năm. Các [[sao]], và [[thiên hà]] của chúng ta phải được hình thành từ rất sớm sau [[Vụ nổ lớn|Big Bang]].<ref name="News eso0106"/>
 
Một kết quả khác đẩy công nghệ trong thiên văn học đến giới hạn hiện nay của nó, và vén lên ánh sáng về thời điểm sớm nhất của dải [[Ngân Hà]]. Các nhà thiên văn của ESO cũng lần đầu tiên đo thành phần của [[berili]] trong hai ngôi sao thuộc về một [[cụm sao cầu]]. Với đo đạc này, họ nghiên cứu pha ban đầu giữa hình thành của những ngôi sao đầu tiên trong Ngân Hà với những cụm sao này. Các nhà thiên văn tìm thấy rằng thế hệ đầu tiên các sao trong dải Ngân Hà phải hình thành ngay sau khi kết thúc "Thời kỳ tối" kéo dài 200 triệu năm sau [[Vụ nổ lớn|Big Bang]]<ref name="How Old is the Milky Way">[http://www.eso.org/public/news/eso0425/ How Old is the Milky Way ?]</ref>.
 
=== Lỗ đen tại trung tâm của Ngân Hà ===
Hàng 221 ⟶ 220:
Cái gì nằm ở trung tâm của [[Ngân Hà]]? Trong một thời gian dài, nhiều người cho rằng có một [[lỗ đen]] nằm tại tâm của [[thiên hà]] chúng ta nhưng không chắc chắn được điều này. Sau 15 năm theo dõi sự di chuyển của các [[ngôi sao]] bằng các kính thiên văn ở đài quan sát La Silla Paranal, các nhà khoa học cuối cùng đã thu được chứng cứ cụ thể.
 
Các sao nằm ở trung tâm Ngân Hà có độ tập trung rất lớn do vậy cần phải có kỹ thuật chụp ảnh đặc biệt như [[quang học thích nghi]] để nâng cao độ phân giải của các kính VLT. Các nhà thiên văn đã có thể theo dõi từng ngôi sao với độ chính xác cao khi chúng di chuyển xung quanh trung tâm Ngân Hà<ref name="Surfing a Black Hole">[http://www.eso.org/public/news/eso0226/ Surfing a Black Hole]</ref> Quỹ đạo của chúng cho thấy chúng phải quay quanh một thiên thể có trường hấp dẫn lớn, một [[lỗ đen siêu khối lượng]], với khối lượng khoảng ba triệu lần [[khối lượng Mặt Trời]].<ref>[http://www.eso.org/public/news/eso0330/ Messages from the Abyss]</ref> Những quan sát từ VLT cũng hé lộ ra những chớp sáng [[hồng ngoại]] phát ra từ vùng này với khoảng thời gian đều đặn. Mặc dù nguyên nhân chính xác của hiện tượng này vẫn còn chưa được biết, những nhà quan sát đã đề xuất ra giả thuyết là [[lỗ đen]] tại tâm Ngân Hà có thể tự quay với tốc độ lớn. Và cho dù là gì đi nữa, cuộc đời của một lỗ đen không hề yên tĩnh và thanh bình.<ref>[http://www.eso.org/public/news/eso0846/ Unprecedented 16-Year Long Study Tracks Stars Orbiting Milky Way Black Hole]</ref>
 
Kính thiên văn VLT cũng dùng để thăm dò vào trung tâm của các [[thiên hà]] khác<ref name="eso0109">[http://www.eso.org/public/news/eso0109/ A Supermassive Black Hole in a Nearby Galaxy]</ref>, và một lần nữa các nhà thiên văn lại tìm thấy sự có mặt của các [[lỗ đen siêu khối lượng]]<ref name="eso0109"/>. Trong thiên hà hoạt động NGC 1097, họ nhìn thấy chi tiết chưa từng có về một mạng lưới tổ hợp các sợi xoắn ốc về phía trung tâm của thiên hà này và khả năng cung cấp cho những hình ảnh đầu tiên<ref>[http://www.eso.org/public/news/eso0534/ Feeding the Monster]</ref> về quá trình vật chất từ những vùng chính của thiên hà rơi về trung tâm của nó.
Hàng 231 ⟶ 230:
Kính thiên văn VLT cùng một số đài quan sát trên thế giới đã quan sát thấy ánh sáng muộn của [[chớp gamma|bùng phát tia gamma]] [[GRB 090423]] có khoảng cách xa nhất từ trước đến nay. Với [[dịch chuyển đỏ]] đo được là 8,2 - ánh sáng từ nguồn này mất khoảng 13 tỷ năm để đến được [[Trái Đất]]. Do đó nó có thể xảy ra khi [[Vũ trụ]] mới chỉ khoảng 600 triệu năm tuổi, hay không nhiều hơn 5% tuổi của Vũ trụ hiện tại. [[Năng lượng]] nó giải phóng trong một vài giây gấp khoảng 300 lần năng lượng mà [[Mặt Trời]] sẽ phát ra trong toàn bộ thời gian sống của nó, khoảng 10 tỷ năm. GRB do đó là những vụ nổ mạnh nhất trong Vũ trụ từ [[Big Bang]]<ref>[http://www.eso.org/public/news/eso0917/ The Most Distant Object Yet Discovered in the Universe]</ref>.
 
Các nhà nghiên cứu đã cố gắng khám phá bản chất của những vụ nổ này trong một thời gian dài. Các quan sát chỉ ra GRB có hai kiểu - thời gian ngắn (ngắn hơn một vài giây), và thời gian dài - từ đó người ta nghi ngờ có hai kiểu sự kiện liên quan đến chúng. Năm 2003, nhờ các kính của ESO các nhà thiên văn đã liên kết những vụ bùng phát tia gamma thời gian dài với những vụ nổ của những sao khối lượng lớn, gọi là 'hypernovae'. Theo dõi vụ nổ này trong vòng một tháng, họ chỉ ra rằng [[ánh sáng]] có tính chất tương tự như ánh sáng thoát ra từ một [[siêu tân tinh|supernova]], được phát ra từ một ngôi sao khối lượng lớn nổ tung ở cuối đời của nó<ref name="eso.org">[http://www.eso.org/public/news/eso0318/ Cosmological Gamma-Ray Bursts and Hypernovae Conclusively Linked]</ref>. Năm 2005, lần đầu tiên các kính thiên văn của ESO đã thu được ánh sáng khả kiến sau một vụ bùng phát thời gian ngắn. Bằng cách theo dõi ánh sáng này trong ba tuần, các nhà thiên văn chỉ ra rằng những bùng phát thời gian ngắn - không như các bùng phát thời gian dài - có nguồn gốc khác với hypernova. Thay vào đó, người ta cho rằng nó là kết quả của sự sáp nhập các [[sao neutron]] hoặc các [[lỗ đen]]<ref>[http://www.eso.org/public/news/eso0541/ Witnessing the Flash from a Black Hole's Cannibal Act]</ref>. Việc quan sát ánh sáng muộn của chớp tia gamma cũng được phối hợp giữa VLT và Atacama Pathfinder Experiment (APEX) để tăng cường khả năng phát hiện và ghi lại dữ liệu ở bước sóng dưới milimét<ref>[http://gcn.gsfc.nasa.gov/gcn/gcn3/11098.gcn3 gcn.gsfc.nasa.gov]</ref>.
 
=== Dữ liệu khoa học và Vũ trụ kĩ thuật số ===
Hàng 246 ⟶ 245:
== 10 khám phá thiên văn học hàng đầu ở ESO ==
[[Tập tin:ESO Top 10 Discoveries.jpg|300px|Top 10 khám phá thiên văn từ ESO.|left|thumb]]
[[Tập tin:Gliese_581_ArtistGliese 581 Artist's_impressions impression.jpg|300px|Hình vẽ mô tả hệ hành tinh [[Gliese 581]].|left|thumb]]
[[Tập tin:Most distant Gamma-ray burst.jpg|300px|Minh họa sự bùng phát tia gamma ở nơi xa nhất trong Vũ trụ|left|thumb]]
==== 1. Vũ trụ đang gia tốc ====
Hàng 253 ⟶ 252:
Kính VLT đã chụp được hình ảnh đầu tiên về một [[hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời]], với khối lượng bằng 5 lần [[khối lượng Sao Mộc]], nó quay quanh một sao mờ, [[sao lùn nâu]], ở khoảng cách so với sao chính 55 [[đơn vị thiên văn|AU]]<ref>[http://www.eso.org/public/news/eso0428/ Is This Speck of Light an Exoplanet?]</ref>.
==== 3. Các sao quanh quay một lỗ đen ở trung tâm Ngân Hà ====
Một số [[kính thiên văn]] mạnh nhất của ESO được sử dụng trong nghiên cứu dài 16 năm để thu được dữ liệu chi tiết về chuyển động của các ngôi sao quay quanh [[lỗ đen]] ở tâm [[Ngân Hà]]<ref>[http://www.eso.org/public/news/eso0226/ name="Surfing a Black Hole]<"/ref> — a supermassive black hole<ref>http://www.eso.org/public/news/eso0846/</ref>.
==== 4. Liên kết giữa sự bùng phát tia gamma và siêu tân tinh ====
Kính thiên văn của ESO đã cung cấp chứng cứ chứng minh là những [[chớp gamma|bùng phát tia gamma]] ''thời gian dài'' có liên quan đến vụ nổ của những [[ngôi sao]] khối lượng rất lớn, giúp giải quyết được bí ẩn này từ lâu<ref>[http://www. name="eso.org"/public/news/eso0318/ Cosmological Gamma-Ray Bursts and Hypernovae Conclusively Linked]</ref>.
==== 5. Chuyển động của các sao trong Ngân Hà ====
Sau hơn 1000 đêm qua sát ở La Silla, trải trong hơn 15 năm, các nhà thiên văn đã xác định được chuyển động của hơn 14.000 [[ngôi sao]] kiểu [[Mặt Trời]] tập trung lân cận xung quanh Mặt Trời, cho thấy thiên hà của chúng ta có hoạt động nhiễu loạn hơn rất nhiều so với suy nghĩ trước kia<ref>[http://www.eso.org/public/news/eso0411/ Milky Way Past Was More Turbulent Than Previously Known]</ref>.
==== 6. Sao già nhất được biết đến trong Ngân Hà ====
Sử dụng kính thiên văn VLT, người ta đã đo được tuổi của những ngôi sao già nhất trong [[Ngân Hà]]. Với tuổi 13,2 tỷ năm, những ngôi sao này đã hình thành từ thời kỳ đầu của [[Vũ trụ]]<ref>[http://www.eso.org/public/news/eso0425/ name="How Old is the Milky Way ?]<"/ref>.
==== 7. Liên kết giữa bùng phát tia gamma và sự hợp nhất hai sao neutron ====
Một kính thiên văn ở La Silla đã quan sát được ánh sáng khả kiến từ một vụ [[chớp gamma|bùng phát tia gamma]] ''thời gian ngắn'', chỉ ra họ những sự kiện này có nguồn gốc từ sự sáp nhập của hai [[sao neutron]]<ref>[http://www.eso.org/public/news/eso0533/ Flashes Shed Light on Cosmic Clashes]</ref>.
Hàng 296 ⟶ 295:
Image:NGC 2264 by ESO.jpg|[[NGC 2264]] và [[Cụm sao cây thông Noel]]
</left></gallery>
 
 
== Xem thêm ==