Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thời kỳ Asuka”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
GrouchoBot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.2) (Bot: Thêm hr:Asuka (razdoblje)
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n chú thích, replaced: {{cite web → {{chú thích web (5), {{cite book → {{chú thích sách (2)
Dòng 1:
{{Lịch sử Nhật Bản}}
{{nihongo|'''Thời kỳ Asuka'''|飛鳥時代,|''Asuka-jidai''|hanviet=Phi Điểu thời đại}} là một thời kỳ trong [[lịch sử Nhật Bản]] kéo dài từ năm [[538]] đến năm [[710]], mặc dù giai đoạn khởi đầu của thời kỳ này có thể trùng với giai đoạn cuối của [[thời kỳ Kofun]]. Thời kỳ Asuka được đặt theo tên vùng [[Asuka]], cách thành phố [[Nara]] hiện giờ khoảng 25  km về phía nam. Quốc gia [[Yamato]], ra đời trong thời kỳ Kofun, phát triển rất nhanh trong thời kỳ Asuka. Nhiều cung điện hoàng gia được xây dựng trong vùng ở thời kỳ này.
 
Thời kỳ Asuka được biết đến với những thay đổi quan trọng về nghệ thuật, xã hội và chính trị. Những thay đổi này có nguồn gốc vào cuối thời Kofun, nhưng chịu nhiều ảnh hưởng của sự xuất hiện của [[đạo Phật]] ở [[Nhật Bản]]. [[Phật giáo]] xuất hiện đánh dấu một thay đổi lớn trong xã hội Nhật Bản. Thời kỳ Asuka còn được phân biệt với các thời kỳ khác bởi sự thay đổi tên của quốc gia từ [[Oa quốc]] (倭) thành [[Nhật Bản]] (日本).
Dòng 55:
Hệ thống ''ritsuryō'' được lập thành nhiều mức. {{nihongo|[[Bộ luật Ōmi]]|近江令 (‘’Cận Giang Lệnh’’)}}, được đặt tên theo nơi đóng đô của triều đình Nhật hoàng Tenji, được hoàn thành năm [[668]]. Những sự hệ thống hóa cao hơn được [[Nhật hoàng Jito]] ban bố năm [[689]] trong {{nihongo|[[Bộ luật Asuka Kiyomihara]]|飛鳥浄御原令 (''Phi Điểu Tịnh Ngự Nguyên Lệnh'')}}, đặt theo tên nơi đặt triều đình của cố Nhật hoàng Tenmu. Hệ thống ''ritsuryō'' được củng cố thêm và hệ thống lại năm [[701]] trong {{nihongo|[[Bộ luật Taiho]]|大宝律令 (''Đại Bảo Luật Lệnh'')|Taihō Ritsuryō}}, mà trừ việc thay đổi chút ít và bỏ đi một số chức năng nghi lễ chính yếu, vẫn còn hiệu lực cho đến năm [[1868]].<ref name="FRD"/>
 
Dù ''Ritsu'' (''Luật'') có nguồn gốc từ hệ thống luật Trung Hoa, ''Ryō'' (''Lệnh'') được sắp xếp theo tập tục địa phương. Vài học giả biện luận rằng hệ thống luật này chủ yếu dựa theo mẫu của Trung Quốc.<ref>William Wayne Farris, ''Sacred Texts and Buried Treasures: Issues on the Historical Archaeology of Ancient Japan'', University of Hawaii Press, 1998. [http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN0824820304&id=dCNioYQ1HfsC&vq=yamato+paekche&dq=kofun+tumuli+korea&lpg=PA104&pg=PA105&sig=3Me7_8p9Tdh1KAYJFUpG7L-Q8ho]. </ref>
 
Luật Taihō có các điều khoản hình sự theo lối Nho giáo (nhẹ hơn so với các hình phạt khắt khe) và tập quyền trung ương kiểu Trung Quốc qua ''{{nihongo|[[Thần kỳ quan (Nhật Bản)|Thần kỳ quan]]|神祇官 (''Jingi-kan'')}}'' (Bộ Lễ), với chức năng coi sóc đạo [[Shinto]] và nghi lễ triều đình, và ''{{nihongo|[[Thái chính quan (Nhật Bản)|Thái chính quan]]|太政官 (''Daijō-kan'')}}'' ([[Bộ Công]]), với tám bộ (để tập trung quyền lực, lễ nghi, sự vụ dân sự, hoàng tộc, pháp lý, quân sự, nhân dân và quốc khố). Mặc dù hệ thống thi cử kiểu Trung Quốc không được áp dụng, {{nihongo|’’Đại Học Liêu’’|大学寮|Daigaku-Ryō}} được thành lập để đào tạo các quan lại tương lai dựa trên nền tảng Nho giáo cổ điển. Tuy vậy, hệ thống mưu lược cổ điển, ví dụ như dòng dõi quý tộc tiếp tục là tiểu chuẩn chính để lựa chọn các vị trí quan trọng, và tước hiệu sẽ sớm được truyền đời lại. Luật Taihō không đề cập đến việc lựa chọn Quốc Chủ. Vài Nữ Hoàng vẫn lên ngôi từ thế kỷ 5 đến 8, nhưng sau năm [[770]], việc thừa kế chỉ được dành cho đàn ông, thường là cha truyền con nói, mặc dù đôi khi vẫn truyền theo mối quan hệ anh-em hay bác-.<ref name="FRD"/>
 
{{nihongo|[[Fujiwara Fuhito]]|藤原不比等(‘’Đằng Nguyên Bất Tỷ Đẳng’’)}}, con trai của [[Nakatomi no Kamatari]], là một trong những người soạn thảo Taihō Ritsuryō. Theo bộ sử {{nihongo|[[Shoku Nihongi]]|續日本紀(‘’Tục Nhật Bản Kỷ’’)}}, hai trong số 19 thành viên của hội đồng phác thảo [[Luật Taiho]] là pháp sư Trung Quốc (Shoku-Shugen and Satsu-Koukaku).<ref>續日本紀 卷第一 文武紀一[http://applepig.idv.tw/kuon/furu/text/syokki/syokki01.htm#skk01_06 續日本紀 卷第一 文武紀一]</ref><ref>[http://www.j-texts.com/jodai/shoku1.html 『続日本紀』国史大系版]</ref> Các pháp sư Trung Quốc cũng giữ vai trò quan trọng như các chuyên gia ngôn ngữ học, và hai lần được [[Thiên Hoàng Jito|Nữ Thiên Hoàng Jito]] ban thưởng.
[http://www.j-texts.com/jodai/shoku1.html]</ref> Các pháp sư Trung Quốc cũng giữ vai trò quan trọng như các chuyên gia ngôn ngữ học, và hai lần được [[Thiên Hoàng Jito|Nữ Thiên Hoàng Jito]] ban thưởng.
 
== Quan hệ đối ngoại ==
Từ năm [[600]] đến năm [[659]], Nhật Bản gửi 7 sứ thần đến [[nhà Đường]] ở Trung Quốc. Nhưng trong vòng 32 năm tiếp theo, trong giai đoạn Nhật Bản đang hoàn thành hệ thống luật pháp dựa trên thư tịch Trung Hoa ủa mình, họ không gửi ai đi. Mặc dù Nhật Bản cắt đứt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, họ đã gửi 11 sứ thần đến [[Silla]], và theo [[Nihon Shoki]] thì Silla đã gửi 17 sứ bộ đến Nhật Bản dưới triều [[Thiên Hoàng Temmu]] và [[Thiên Hoàng Jito|Nữ Thiên Hoàng Jito]]. Gia tộc thống trị Yamato và [[Baekje]] có quan hệ thân tình với nhau, và Yamato đã gửi hải quân của mình đến cứu viện Baekje, năm [[660]]-[[663]], chống lại cuộc xâm lăng của [[Silla]] và [[nhà Đường]] (xem [[trận Baekgang]]).
 
Thay vì chu du đến Trung Quốc, rất nhiều pháp sư từ [[Tam Quốc Triều Tiên]] được gửi đến Nhật Bản. Kết quả là, điều này cũng tình cờ thúc đẩy việc Nhật gửi quân cứu viện [[Baekje]].<ref name="Sansom">Sansom, George (1958). 'A History of Japan to 1334'. Stanford, California: Stanford University Press. 47-49.</ref> Một vài pháp sư nổi tiếng đến từ Triều Tiên như {{Nihongo|[[Eji]]|慧慈 (''Tuệ Từ'')}}, {{Nihongo|[[Ekan]]|慧灌 (''Tuệ Quán'')}}, {{Nihongo|[[Eso]]|慧聡(''Tuệ Thông'')}} and {{Nihongo|[[Kanroku]]|觀勒 (''Quan Lặc'')}}. Eji, đến từ [[Goguryeo]] là thầy giáo của [[Thái tử Shotoku]], và cố vấn cho ông về chính trị.<ref>Encyclopedia of World Biography on Shotoku Taishi [http://www.bookrags.com/Prince_Sh%C5%8Dtoku Encyclopedia of World Biography on Shotoku Taishi]</ref>
 
=== Torai-jin ===
Những người nhập cư Trung Quốc và Triều Tiên đã trở thành tự nhiên trong xã hội Nhật Bản cổ đại được gọi là {{nihongo|[[Torai-Jin|torai-jin]]|渡来人 (''Độ Lai Nhân'')}}. Họ truyền bá nhiều khía cạnh ngôn ngữ, văn hóa và truyền thống của mình cho cư dân bản địa. Người Nhật đối xử tốt với những ''torai-jin'' này vì triều đình Yamato đánh giá cao tri thức và văn hóa của họ. Theo ghi chép trong {{nihongo|''Shinsen-shōjiroku''|新撰姓氏録}}, danh sách tên các gia đình quý tộc được Triều đình Yamato biên soạn năm [[815]], một phần tư các gia đình quý tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và Triều Tiên. 163 trong số 1182 cái tên là từ Trung Quốc, và 154 là từ bán đảo Triều Tiên (104 từ [[Baekje]], 41 từ [[Goguryeo]], và 9 từ [[Silla]] và [[Gaya]]).<ref name="Beasley">{{citechú bookthích sách| url=http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN0520225600&id=9AivK7yMICgC&pg=PA32&lpg=PA32&dq=history+of+japan+and+korea&vq=korea&sig=V5gQx0zzYDUvUYqeYjnYRbMoCG8| title=The Japanese Experience: A Short History of Japan| first=W. G.| last=Beasley| publisher=University of California Press| id=ISBN 0-520-22560-0| year=Aug 31, 2000}}</ref>
 
Tuy nhiên, những người nhập cư này nói chung bị coi là thuộc giai tầng thấp hơn trong hệ thống ''[[Kabane]]'' xếp hạng rất nhiều gia tộc là thành viên của triều đình. Họ thường được xếp vào bậc "Atai", "Miyatsuko", hay "Fubito", trong khi các thành viên của các gia đình thống trị như Soga, Mononobe, và Nakatomi được xếp vào hạng "Omi" hay "Muraji".
 
=== Những người nhập cư ===
Một ví dụ về các gia tộc có tổ tiên ngoài Nhật Bản là gia tộc Yamatonoaya (''東漢氏'') (''Đông Hán thị’’), là hậu duệ của [[Hán Linh Đế]]. Người đứng đầu gia tộc này là Achi-no-Omi (''阿智使主'') (''A Trí Sứ Chủ''). Theo [[Nihongi]], dưới triều Nhật hoàng Kimmei, [[gia tộc Hata]] (''秦氏'') (''Tần Thị’’), hậu duệ của [[Tần Thủy Hoàng]], đã mang đến nghề nuôi tằm dệt vải. Gia tộc Kawachino-Fumi clan (''西文氏'') (''Tây Văn Thị''), là hậu duệ của [[Hán Cao Tổ]], dạy cho triều đình Yamato văn tự Trung Hoa, theo ''Shinsen-shōjiroku''. Gia tộc Takamoku là hậu duệ của [[Tào Phi]].<ref>{{citechú thích web| url=http://homepage1.nifty.com/k-kitagawa/data/shoji.html| title="Shinsen-shōjiroku" shizoku ichiran 『新撰姓氏録』氏族一覧|publisher=transcribed by Kazuhide Kitagawa|accessdate=2006-10-16}}</ref><ref>{{citechú thích web| url=http://www.myj7000.jp-biz.net/clan/03/03008.htm| title=Nihon no myōji 7000 ketsu seishi ruibetsu taikan Takamuko uji 日本の苗字7000傑 姓氏類別大観 高向氏| accessdate=2006-10-16}}</ref> {{nihongo|[[Takamuko no Kuromaro]]|高向玄理 (''Cao Hướng Huyền Lý'')}} là một thành viên chủ chốt đã viết nên [[Cải cách Taika]]. {{nihongo|[[Tori Busshi]]|止利仏師 (''Chi Lợi Phật Sư'')}}, cũng đến từ Trung Quốc, là một trong những họa sỹ nổi tiếng nhất thời Asuka.
 
Năm [[660]], một trong Tam Quốc Triều Tiên, [[Baekje]], mất về tay [[Silla]] và [[nhà Đường]]. Sau đó, rất nhiều nạn dân Baekje đã chạy loạn đến Nhật Bản. Triều đình Yamato đã đón nhận hoàng tộc và nạn dân Baekje. Hoàng gia Baekje được [[Nhật hoàng]] ban cho cái tên "[[Kudara no Konikishi]]" (百済王, ''Bách Tề Vương'').
Hàng 92 ⟶ 91:
Một số công trình kiến trúc xây dựng trong thời đại này vẫn còn đến ngày nay. Các công trình bằng gỗ ở [[Hōryū-ji]], xây dựng vào thế kỷ 7, đã chịu ảnh hưởng của Trung Hoa và các quốc gia Tây Á. Ví dụ như các cây cột ở [[Hōryū-ji]] khá giống với cột của điện [[Parthenon]] của [[Hy Lạp cổ đại]], như ở các đường gờ dọc cột. ''Ngũ Trọng Tháp'' (''五重の塔'') là sự chuyển biến từ kiến trúc Ấn Độ giống gò đất, [[Stupa]].
 
Những bức bích họa ở kofun Takamatsuzuka và Kitora, có từ thế kỷ thứ 5, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ bích họa [[nhà Đường]] và [[Goguryeo]].<ref>{{citechú bookthích sách| url=http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN0824820304&id=dCNioYQ1HfsC&dq=kofun+tumuli+korea&lpg=PA95&pg=PA95&sig=pklpAbfrrspwFUtncGBqMy1dks0| title=Sacred Texts and Buried Treasures: Issues on the Historical Archaeology of Ancient Japan| pages=95}}</ref><ref>{{citechú thích web| url=http://whc.unesco.org/en/list/1091| title=Complex of Koguryo Tombs| publisher=UNESCO World Heritage Centre}}</ref>
 
Nghệ thuật tượng Phật Nhật Bản được cho là phỏng theo kiểu cách thời Lục Quốc ở Trung Hoa. Phong cách của tượng phật thời kỳ này được gọi là phong cách Tori, được lấy từ tên nhà điêu khắc nổi tiếng [[Kuratsukuri Tori]], cháu nội của một người nhập cư Trung Hoa [[Shiba Tatto]].<ref>{{citechú thích web| url=http://concise.britannica.com/ebc/article-9380953/Tori-style| title=Tori style| work=Britannica Concise| publisher=Encyclopædia Britannica}}</ref> Một vài kiểu mẫu tiêu biểu của phong cách này bao gồm mắt rõ ràng, hình quả hạnh, và các nếp gấp được sắp xếp đối xứng trên trang phục. Đặc điểm nhận dạng rõ rệt nhất của các bức tượng này là việc thể hiện nụ cười được gọi là [[Nụ cười Cổ xưa]]. Kudara Kanon ở Hōryū-ji là bức tượng Phật nổi tiếng nhất của thời kỳ này.
 
=== Văn hóa Hakuhō ===
Giai đoạn thứ hai của nghệ thuật Phật giáo, tiếp nối thời kỳ nghệ thuật Asuka, được gọi là [[Văn hóa Hakuhō]] (''Bạch Phượng Văn Hóa'') ([[:ja:白鳳文化|白鳳文化]]) và bắt đầu từ [[Cải cách Taika]] cho đến ngày dời đô khỏi Nara năm 710. Trong suốt nửa sau thế kỷ 8, hàng loạt các bài hát và bài thơ được soạn và biểu diễn bởi người từ nhiều đẳng cấp khác nhau, từ chiến binh đến Thiên hoàng. Tập thơ sớm nhất được biết đến là [[Man'yōshū]]. Nó bao gồm tác phẩm của vài nhà thơ đáng chú ý như [[Công chú Nukata]] và [[Kakinomoto Hitomaro]]. [[Waka (thơ)|Waka]] (''Hòa Ca'') cũng xuất hiện như một thể thơ mới trong thời kỳ này. Nó được hình như một thuật ngữ để phân biệt lối thơ dân tộc với lối thơ từ Trung Hoa; dưới ảnh hưởng của thể thơ ''waka'', một thể thơ được yêu thích hơn ra đời với cái ''tanka''. Nó bao gồm 31 chữ chia thành 5 dòng, theo mẫu 5/7/5/7/7.<ref>{{citechú thích web| url=http://www.mnsu.edu/emuseum/prehistory/japan/asuka/asuka-period.html| first=Taku| last=Kurashige| coauthors=Rie Yamada| title=Asuka Period| year=2003}}</ref>
 
== Các sự kiện ==
*538: Vương quốc Triều Tiên Baekje gửi đi một đoàn sứ thần để giới thiệu Phật giáo cho Thiên Hoàng Nhật Bản.
*593: [[Thái tử Shotoku]] giữ trọng trách Nhiếp chính cho nữ [[Thiên Hoàng Suiko]] và truyền bá Phật giáo cùng với gia tộc Soga.
*600: Yamato gửi đoàn sứ bộ đầu tiên đến Trung Quốc kể từ năm 478.
*604: Thái tử Shotoku ban hành ''[[Thập thất điều Hiến pháp]]'' (十七条憲法) (Jūshichijō kenpō) theo phong cách Trung Hoa, dựa trên nguyên tắc Nho giáo, thực chất điều này đã khởi đầu Đế chế Nhật Bản.
*607: [[Thái tử Shotoku]] xây dựng Chùa Hōryūji ở Ikaruga.
*645: Soga no Iruka và cha ông là Emishi bị giết trong [[sự biến Isshi]]. [[Thiên hoàng Kōtoku]] lên ngôi và củng cố hoàng quyền qua các gia đình quý tộc (xem [[Cải cách Taika]]), chia cả nước thành các tỉnh.
*663: Thủy quân Nhật Bản bị liên minh Đường-Silla đánh bại trong [[trận Baekgang]], không phục hồi được Baekje.
*670: [[Koseki]] (''Hộ Tịch'') (sổ đăng ký gia đình) (Kōgo-Nenjaku) được soạn thảo.
*672: Hoàng tử Ōama, sau này là [[Thiên hoàng Temmu]] chiếm đoạt ngai vàng qua một cuộc nội chiến ([[chiến tranh Jinshin|Jinshin no Ran]]) chống lại [[Thiên hoàng Kōbun]].
*689: [[Luật Asuka Kiyomihara]] được ban bố.
*701: [[Luật Taihō]] được ban bố.