Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lớp Cá vây thùy”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n r2.7.2) (Bot: Thêm tl:Sarcopterygii |
n →Đặc trưng: chú thích, replaced: {{cite book → {{chú thích sách |
||
Dòng 25:
Nhóm cá vây thùy đầu tiên - [[Crossopterygii]] - là cá xương với các vây dày thịt, phân thùy thành cặp đôi, kết nối với cơ thể bằng một xương duy nhất<ref>Clack J. A. (2002) Gaining Ground: The Origin and Evolution of Tetrapods. Nhà in Đại học Indiana, ISBN 9780253340542.</ref> Các vây của Crossopterygii khác với vây của các loài cá khác ở chỗ mỗi vây được sinh ra trên một cuống dày cùi thịt, giống như thùy, có vảy, kéo dài ra từ thân. Các vây ngực và vây chậu có các khớp giống như khớp chân của [[Tetrapoda]]. Các vây này đã tiến hóa thành chân của các động vật bốn chân đầu tiên là [[Amphibia]]. Chúng cũng có 2 vây lưng với phần gốc tách biệt, khác với một vây lưng duy nhất của [[Actinopterygii]] (cá vây tia). Hộp sọ của Sarcoptergygii nguyên thủy có 1 đường khớp nối, nhưng nó đã mất đi ở Tetrapoda và cá phổi. Nhiều loài cá vây thùy đầu tiên có đuôi đối xứng. Tất cả các loài cá vây thùy đều có răng được [[men răng]] thật sự che phủ.
Các nhà phân loại học nào đi theo cách tiếp cận của miêu tả theo nhánh học đều gộp nhóm Tetrapoda vào trong phạm vi nhóm cá vây thùy, mà tới lượt nó lại bao gồm toàn bộ các loài động vật có xương sống với 4 chân<ref name="Nelson">{{
== Tiến hóa của cá vây thùy ==
|