Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Washington (BB-56)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
ZéroBot (thảo luận | đóng góp)
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n chú thích
Dòng 1:
{{Dablink|Về những tàu chiến Hoa Kỳ khác mang cùng tên, xin xem [[USS Washington]].}}
 
 
{|{{Infobox ship begin}}
{{Infobox ship image
|Ship image=[[Tập tin: USS Washington BB-56.jpg|300px|.]]
|Ship caption= Thiết giáp hạm USS ''Washington'' (BB-56) thả neo tại [[xưởng hải quân Puget Sound]]
}}
Hàng 59 ⟶ 58:
'''USS ''Washington'' (BB-56)''', chiếc [[thiết giáp hạm]] thứ hai trong [[North Carolina (lớp thiết giáp hạm)|lớp ''North Carolina'']] vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của [[Hải quân Hoa Kỳ]] được đặt cái tên này nhằm tôn vinh [[bang Washington|tiểu bang thứ 42]] của Hoa Kỳ.
 
''Washington'' có điểm nổi bật là đã phục vụ suốt trọn [[Chiến tranh Thế giới lần thứ hai]] tại [[Mặt trận Thái Bình Dương]] mà không bị tổn thất người nào do hỏa lực đối phương, và chỉ bị bắn trúng một lần duy nhất ngoài khơi [[Guadalcanal]] khi một quả đạn pháo 127  mm (5 inch) xuyên qua ăn-ten radar của nó mà không phát nổ. Tuy nhiên, trong trận [[Hải chiến Guadalcanal]], nhiều quả [[ngư lôi]] Nhật Bản đã phát nổ trên những đợt sóng gần tàu; nhiều thủy thủ trên ''Washington'' tử trận do những tai nạn nhỏ, và con tàu cũng gặp phải tai nạn va chạm nghiêm trọng với thiết giáp hạm [[USS Indiana (BB-58)]] khiến nhiều người chết và bị thương vào [[tháng 2]] năm [[1944]].
 
''Washington'' được cho ngừng hoạt động vào năm [[1947]] và được bán để tháo dỡ vào năm [[1961]].
Hàng 105 ⟶ 104:
''Washington'' thực hiện các nhiệm vụ cần thiết như vậy cho đến giữa [[tháng 11]] năm [[1942]]. Vào ngày [[9 tháng 11]], tin tức tình báo hải quân nhận được cho biết ba nhóm tàu chiến Nhật Bản đang hướng về phía Guadalcanal, trong đó một nhóm bao gồm 24 tàu vận tải và các tàu khu trục hộ tống. Một báo cáo khác cho biết trông thấy lực lượng đối phương bao gồm hai thiết giáp hạm, một [[tàu tuần dương]] hạng nhẹ và 11 [[tàu khu trục]].
 
Chiều tối ngày [[13 tháng 11]], Chuẩn Đô đốc [[Willis A. Lee]] dẫn một lực lượng bao gồm USS ''Washington'', thiết giáp hạm [[USS South Dakota (BB-57)|''South Dakota'']] và bốn [[tàu khu trục]] hướng đến [[đảo Savo]]; địa điểm từng xảy ra các hoạt động tác chiến ban đêm của [[Trận chiến đảo Savo]] gây thiệt hại nặng nề cho phe Đồng Minh vào ngày [[9 tháng 8]]; đến một vị trí để đánh chặn đoàn tàu vận tải Nhật Bản cùng lực lượng hộ tống cho chúng. Các tàu chiến của Lee, được đặt tên là Lực lượng Đặc nhiệm 64, đến một điểm cách 80  km (50 dặm) về phía Tây Nam Guadalcanal gần trưa ngày [[14 tháng 11]] năm và trải qua hầu hết thời gian của ngày hôm đó lẫn tránh, nhưng không thành công, sự phát hiện của các máy bay trinh sát Nhật Bản.
 
Tiếp cận đến Guadalcanal bằng con đường phía Bắc và ở cách 9 dặm về phía Tây, Lực lượng Đặc nhiệm 64 bị một máy bay trinh sát Nhật phát hiện và thông báo vị trí, bao gồm một thiết giáp hạm, một tàu tuần dương (thực ra là hai thiết giáp hạm) và bốn tàu khu trục di chuyển theo đội hình hàng dọc. Đội hình hạm đội Mỹ được dẫn đầu bởi tàu khu trục [[USS Walke (DD-416)|''Walke'']], rồi tiếp nối bởi [[USS Benham (DD-397)|''Benham'']], [[USS Preston (DD-379)|''Preston'']], [[USS Gwin (DD-433)|''Gwin'']], và hai chiếc thiết giáp hạm đi sau cùng ''Washington'' và ''South Dakota''.
 
Khi những con tàu chiến di chuyển trên mặt nước phẳng lặng trong đêm dưới những đám mây, [[radar]] của ''Washington'' bắt được tín hiệu của một mục tiêu di chuyển về phía Đông [[đảo Savo]] lúc 00 giờ 01 phút ngày [[15 tháng 11]]. Mười lăm phút sau, lúc 00 giờ 16 phút, ''Washington'' khai hỏa các khẩu pháo chính 406  mm (16 inch) nhắm vào mục tiêu, mở màn trận đánh.
 
Lực lượng Nhật Bản bao gồm chiếc thiết giáp hạm [[Kirishima (thiết giáp hạm Nhật)|''Kirishima'']], các tàu tuần dương hạng nặng [[Atago (tàu tuần dương Nhật)|''Atago'']] và [[Takao (tàu tuần dương Nhật)|''Takao'']], các tàu tuần dương hạng nhẹ [[Sendai (tàu tuần dương Nhật)|''Sendai'']] và [[Nagara (tàu tuần dương Nhật)|''Nagara'']] cùng một lực lượng chín [[tàu khu trục]] dẫn trước bốn tàu vận tải. Dự định thực hiện một cuộc bắn phá xuống các vị trí của lực lượng [[Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ|Thủy quân Lục chiến]] trên đảo Guadalcanal nhằm bảo vệ cho cuộc đổ bộ lực lượng vào ngày hôm sau, lực lượng Nhật đã hướng thẳng vào các tàu chiến trong Lực lượng Đặc nhiệm 64 của Lee.
 
Trong ba phút tiếp theo sau, ''Washington'' bắn ra 42 quả đạn pháo 406  mm (16 inch) từ khoảng cách 17  km (18.500 yard), nhắm vào chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ ''Sendai''. Cùng lúc đó, dàn pháo hạng hai 127  mm (5 inch) đa dụng của nó cũng nhắm vào một tàu chiến khác vốn cũng đang bị chiếc ''South Dakota'' nả pháo. Trong khoảng thời gian từ 00 giờ 25 phút đến 00 giờ 34 phút, chiếc thiết giáp hạm đối đầu cùng tàu chiến đối phương ở khoảng cách 9  km (10.000 yard) bằng các khẩu pháo 127  mm (5 inch) của nó.
[[Tập tin:NavalGuadalcanalWashington.jpg|nhỏ|phải|''Washington'' đang bắn pháo vào chiếc thiết giáp hạm Nhật ''Kirishima''.]]
Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là ''Washington'' không lâu sau đó giáp chiến cùng với ''Kirishima'' trong cuộc đối đầu giữa những thiết giáp hạm lần đầu tiên trong chiến tranh tại Thái Bình Dương. Trong bảy phút, được hướng dẫn bởi [[radar]], ''Washington'' đã bắn 75 quả đạn pháo 406  mm (16 inch) và 107 quả đạn 127  mm (5 inch) ở tầm xa từ 7.700 đến 11.600 m (8.400 - 12.650 yard), bắn trúng ít nhất chín quả đạn 406  mm và khoảng 40 quả đạn 127  mm, khiến ''Kirishima'' phải lặng tiếng và bốc cháy. Sau đó, các khẩu đội pháo 127  mm (5 inch) của ''Washington'' còn bắn vào các mục tiêu khác hiện diện trên màn hình radar.
 
Tuy nhiên, trận hải chiến ngoài khơi Guadalcanal không phải chỉ là một chiều. Hải pháo cùng [[ngư lôi Kiểu 93|ngư lôi Long Lance]] mạnh mẽ của lực lượng Nhật đã phá hủy bốn tàu khu trục của Lực lượng Đặc nhiệm 64. ''Walke'' và ''Preston'' trúng nhiều đạn pháo đủ các cỡ và bị đánh chìm; ''Benham'' bị hư hại nặng phía mũi tàu, trong khi ''Gwin'' đúng đạn phía sau đuôi tàu.
Hàng 121 ⟶ 120:
''South Dakota'' phải cơ động để tránh những chiếc ''Walke'' và ''Preston'' đang bốc cháy, nhưng không lâu sau lại trở thành mục tiêu của toàn bộ lực lượng bắn pháo Nhật Bản. Chiếc thiết giáp hạm chịu đựng nhiều phát đạn bắn trúng và hư hỏng hệ thống điện nên bị buộc phải rút lui, trong khi ''Washington'' di chuyển về phía Bắc thu hút hỏa lực đối phương về phía nó che chở cho đồng đội đang bị hư hại cũng như các tàu khu trục ''Benham'' và ''Gwin''. Thoạt tiên, các tàu chiến Nhật còn lại truy đuổi theo ''Washington'' nhưng chúng nhanh chóng tháo lui vì e ngại các khẩu pháo hạng nặng của chiếc thiết giáp hạm; sau đó chúng rút lui dưới sự che chở của một màn khói ngụy trang.
 
Sau khi ''Washington'' cơ động né tránh được các quả ngư lôi phóng ra bởi các tàu khu trục Nhật, trong đó nhiều quả phát nổ trên sóng phía sau tàu, nó gặp gỡ ''South Dakota'' sáng hôm sau và lên đường hướng về [[Nouméa]]. Sau các hoạt động tác chiến căng thẳng, ''Washington'' đã thể hiện trong chiến đấu tốt và thoát ra được mà không bị hư hại gì, ngoại trừ một quả đạn pháo 127  mm (5 inch) xuyên qua một trong những ăn-ten radar của nó mà không phát nổ. ''South Dakota'' không được may mắn như thế, phải chịu đựng những hư hỏng nghiêm trọng cho cấu trúc thượng tầng, với 38 người thiệt mạng và 60 người khác bị thương. Về phía Nhật Bản, họ bị mất chiếc thiết giáp hạm ''Kirishima'', khi chiếc tàu chiến trôi nổi với các đám cháy và các vụ nổ bùng phát, khiến phải bỏ tàu và sau đó bị đánh đắm. Một thiệt hại khác là chiếc tàu khu trục [[Ayanami (tàu khu trục Nhật)|''Ayanami'']], bị đánh đắm sáng hôm sau.
 
Trong khi ''South Dakota'' quay trở về New York để sửa chữa lớn, ''Washington'' ở lại khu vực chiến trường Nam Thái Bình Dương, đặt căn cứ tại New Caledonia và tiếp tục phục vụ như là soái hạm của Chuẩn Đô đốc Lee. Chiếc thiết giáp hạm tiến hành bảo vệ các đội đặc nhiệm tàu sân bay và các lực lượng đặc nhiệm tham gia chiến dịch Solomon tiếp diễn cho đến cuối [[tháng 4]] năm [[1943]], hoạt động chủ yếu cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 11, vốn bao gồm chiếc tàu sân bay [[USS Saratoga (CV-3)|''Saratoga'']], vốn vừa mới được sửa chữa sau khi trúng phải ngư lôi từ tàu ngầm Nhật; và cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 16 vốn được xây dựng chung quanh chiếc tàu sân bay [[USS Enterprise (CV-6)|''Enterprise'']].
Hàng 142 ⟶ 141:
Trong khi [[Chiến dịch quần đảo Gilbert]] đi đến hồi kết thúc, Đội Đặc nhiệm 50.8 được thành lập vào ngày [[6 tháng 12]] dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc [[Willis A. Lee]], đặt cờ hiệu của ông trên chiếc USS ''Washington''. Các tàu chiến khác trong đội bao gồm chiếc thiết giáp hạm chị em [[USS North Carolina (BB-55)|''North Carolina'']], [[USS Massachusetts (BB-59)|''Massachusetts'']], [[USS Indiana (BB-58)|''Indiana'']], [[USS South Dakota (BB-57)|''South Dakota'']] và [[USS Alabama (BB-60)|''Alabama'']] cùng tàu sân bay hạm đội ''USS Bunker Hill'' và tàu sân bay hạng nhẹ ''USS Monterey''. Mười một tàu khu trục theo hộ tống các tàu chiến hạng nặng.
 
Đội đặc nhiệm thoạt tiên di chuyển đến phía Nam và phía Tây [[đảo Ocean]] chiến lĩnh các vị trí xuất phát để không kích và nả pháo xuống đảo [[Nauru]]. Trước lúc bình minh ngày [[8 tháng 12]], các tàu sân bay đã tung ra các cuộc không kích trong khi các thiết giáp hạm xếp đội hình hàng dọc. 135 quả đạn pháo 406  mm (16 inch) từ sáu chiếc thiết giáp hạm đã nả xuống các vị trí của quân Nhật tại Nauru; và sau khi hoàn tất, đến lượt dàn hỏa lực hạng hai từ các thiết giáp hạm trong khi hai thủy phi cơ từ mỗi thiết giáp hạm trinh sát điểm rơi của các quả đạn pháo.
 
Sau khi các đợt không kích khác được tung ra nhắm vào [[Nauru]], đội đặc nhiệm hướng đến [[Efate]], và đến nơi vào ngày [[12 tháng 12]]. Vào ngày hôm đó, do sự thay đổi chỉ huy ở cấp cao, Lực lượng Đặc nhiệm 57 được đổi tên thành 37. ''Washington'' ở lại Efate trong vòng không đầy hai tuần. Lên đường vào ngày lễ Giáng Sinh vào treo cờ hiệu của Chuẩn Đô đốc Lee, chiếc thiết giáp hạm khởi hành cùng chiếc tàu chị em ''North Carolina'' và bốn tàu khu trục hộ tống để thực hành tác xạ, rồi quay trở về New Hebrides vào ngày [[7 tháng 1]] năm [[1944]].
Hàng 148 ⟶ 147:
Mười một ngày sau, chiếc thiết giáp hạm khởi hành từ Efate hướng đến [[quần đảo Ellice]]. Gia nhập Đội Đặc nhiệm 37.2 cùng các tàu sân bay ''Monterey'' và ''Bunker Hill'' cùng bốn tàu khu trục, ''Washington'' đi đến [[Funafuti]] thuộc quần đảo Ellice vào ngày [[20 tháng 1]]. Ba ngày sau, cùng với phần còn lại của đội đặc nhiệm, chiếc thiết giáp hạm tiến ra khơi để gặp gỡ các đơn vị khác của Lực lượng Đặc nhiệm 58, một lực lượng tàu sân bay nhanh dưới quyền chỉ huy chung của Phó Đô đốc [[Marc A. Mitscher|Marc A. "Pete" Mitscher]]. Được phân về Đội Đặc nhiệm 58.1, ''Washington'' hộ tống các tàu sân bay nhanh trong đội của nó khi chúng tung ra các cuộc không kích nhắm vào [[Taroa]] và [[Kwajalein]] trong [[tháng 1]] năm [[1944]]. ''Washington'' cùng với ''Massachusetts'' và ''Indiana'' rời khỏi đội hình cùng với bốn tàu khu trục như một lực lượng hộ tống chống tàu ngầm, và chúng đã bắn phá [[đảo san hô Kwajalein]] trong ngày [[30 tháng 1]], được tiếp nối bằng các đợt không kích trong ngày hôm sau.
 
Ngày [[1 tháng 2]], vận rủi xảy ra cùng với ''Washington''. Đang khi di chuyển trong hoàn cảnh tối đen như mực, nó đã đâm phải thiết giáp hạm USS ''Indiana'' khi chiếc này băng ngang mũi ''Washington'' khi rời khỏi đội hình để tiếp nhiên liệu cho các tàu khu trục hộ tống. Cả hai chiếc thiết giáp hạm buộc phải rút lui về hậu cứ để sửa chữa. ''Washington'' chịu đựng hư hại 18  m (60  ft) lớp vỏ bọc mũi tàu, cùng nhiều thủy thủ bị tử nạn hay bị thương nặng. Thuyền trưởng chiếc USS ''Indiana'' nhanh chóng nhận trách nhiệm về lỗi lầm của mình trong tai nạn này. Cả hai chiếc tàu đi vào vũng biển tại [[Majuro]] sáng hôm sau; và sau khi mũi tàu hư hại được gia cố tạm thời, ''Washington'' rời Majuro ngày [[11 tháng 2]] hướng về [[Trân Châu Cảng]] trên đảo [[Oahu]].
 
Với một mũi tàu tạm thời được trang bị tại [[Xưởng hải quân Trân Châu Cảng]], ''Washington'' tiếp tục lên đường hướng đến bờ Tây Hoa Kỳ. Tại [[Xưởng hải quân Puget Sound]], [[Bremerton, Washington]], chiếc ''Washington'' được trang bị một mũi tàu mới trong những tuần lễ tiếp theo sau. Gia nhập Hải đội Thiết giáp hạm 4 tại [[Port Townsend]], ''Washington'' nhận lên tàu hơn 500 hành khách và lên đường hướng đến Trân Châu Cảng, đến nơi vào ngày [[13 tháng 6]], và đưa các vị khách của mình lên bờ.
Hàng 159 ⟶ 158:
Ngày [[15 tháng 6]], máy bay thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 58 của Đô đốc Mitscher đã ném bom các vị trí của quân Nhật trên đảo [[Iwo Jima]] thuộc [[quần đảo Volcano]] cùng [[Chichi Jima]] và [[Haha Jima]] trong [[quần đảo Bonin]]. Trong khi đó, lực lượng Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên Saipan dưới sự che chở của hỏa lực hải pháo dày đặc và của máy bay từ các tàu sân bay.
 
Cùng ngày hôm đó, Đô đốc [[Jisaburo Ozawa]], chỉ huy lực lượng nòng cốt của Hạm đội Liên hợp Nhật Bản, được lệnh tấn công và tiêu diệt lực lượng đổ bộ tại quần đảo Mariana. Tuy nhiên, việc khởi hành lực lượng tàu sân bay của ông đã bị tàu ngầm [[USS Redfin (SS-272)| ''Redfin'']] phát hiện, khi chúng rời [[Tawi Tawi]], đảo cực Tây của [[quần đảo Sulu]]. Tàu ngầm [[USS Flying Fish (SS-229)|''Flying Fish'']] cũng trông thấy lực lượng của Ozawa khi chúng đi vào khu vực [[biển Philippine]]. Tàu ngầm [[USS Cavalla (SS-244)|''Cavalla'']] cũng đánh điện báo cáo trông thấy một đội tàu tiếp tế nhiên liệu đối phương vào ngày [[16 tháng 6]] và tiếp tục theo dõi khi chúng hướng đến khu vực quần đảo Mariana. Nó lại trông thấy các đơn vị của Hạm đội Liên hợp Nhật Bản một lần nữa vào ngày [[18 tháng 6]].
 
Trong lúc đó, Đô đốc [[Raymond Spruance]], Tư lệnh [[Đệ Ngũ hạm đội Hoa Kỳ|Đệ Ngũ hạm đội]], đã biết được sự điều động lực lượng của Hải quân Nhật và đã vạch ra kế hoạch tác chiến tương ứng. Lực lượng của Phó Đô đốc Lee hình thành nên màn chắn bảo vệ chung quanh các tàu sân bay thiết yếu; trong đó ''Washington'' cùng sáu thiết giáp hạm khác, bốn tàu tuần dương hạng nặng và 14 tàu khu trục được bố trí để hộ tống lực lượng tàu sân bay. Ngày [[19 tháng 6]], những chiếc tàu chiến bị tấn công bởi máy bay xuất phát từ các tàu sân bay và máy bay đặt căn cứ trên bờ khi [[trận chiến biển Philippine]] tiếp diễn. Hỏa lực mạnh mẽ của hàng rào phòng không cộng với khả năng của các phi công Mỹ đảm trách tuần tra chiến đấu trên không tỏ ra đủ để ngăn chặn lực lượng tấn công Nhật Bản. Việc một số lượng lớn máy bay Nhật bị mất, đôi khi còn được gọi là "Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại", đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho không lực của Hải quân Nhật. Trong bốn đợt không kích, đối phương đã tung ra 373 máy bay; và chỉ có 130 chiếc quay về.
Hàng 174 ⟶ 173:
Các khẩu pháo hạng nặng của ''Washington'' đã hỗ trợ cho việc chiếm đóng [[Peleliu]] và [[Angaur]] thuộc quần đảo Palaus cũng như hỗ trợ các cuộc không kích xuống Okinawa vào ngày [[10 tháng 10]], ở phía Bắc [[Luzon]] và [[Đài Loan]] từ ngày [[11 tháng 10|11]] đến ngày [[14 tháng 10]], cũng như không kích [[Visayas]] vào ngày [[21 tháng 10]]. Từ ngày [[5 tháng 11]] năm [[1944]] đến ngày [[17 tháng 2]] năm [[1945]], như một đơn vị thiết yếu của lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh, ''Washington'' đã hỗ trợ các cuộc không kích xuống [[Okinawa]], [[quần đảo Ryukyu]]; Đài Loan; Luzon; [[vịnh Cam Ranh]] và [[Sài Gòn]] thuộc [[Đông Dương]]; [[Hong Kong]]; [[Quảng Châu]]; [[Hải Nam]]; [[Nansei Shoto]]; cũng như ngay vào trái tim của chính quốc Nhật Bản là [[Tokyo]].
 
Từ ngày [[19 tháng 2|19]] đến ngày [[22 tháng 2]] năm [[1945]], ''Washington'' dội các quả đạn pháo hạng nặng 406  mm (16 inch) lên bờ biển để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên [[Iwo Jima]]. Để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ, không chỉ dàn pháo chính mà cả pháo hạng hai của ''Washington'' cũng được huy động vào việc tiêu diệt các vị trí pháo, điểm tập trung quân cùng các cơ sở khác trên bờ. Từ ngày [[23 tháng 2]] đến ngày [[16 tháng 3]], chiếc thiết giáp hạm nhanh hỗ trợ cho việc [[Trận Iwo Jima|chiếm đóng Iwo Jima]], bao gồm một cuộc không kích bằng tàu sân bay xuống Tokyo vào ngày [[25 tháng 2]]. Trong các ngày [[18 tháng 3|18]], [[19 tháng 3|19]] và [[29 tháng 3]], ''Washington'' bảo vệ cho các tàu sân bay của hạm đội khi chúng tung ra các cuộc không kích nhắm vào các sân bay Nhật Bản cùng các mục tiêu khác trên đảo [[Kyūshū]]. Vào ngày [[24 tháng 3]], và một lần nữa vào ngày [[19 tháng 4]], ''Washington'' hỗ trợ bằng cách nả pháo xuống các vị trí của quân Nhật trên đảo [[Okinawa]].
 
Thả neo tại [[vịnh San Pedro (Philippines)|vịnh San Pedro]] tại [[Leyte (đảo)|Leyte]] vào ngày [[1 tháng 6]] năm [[1945]] sau một loạt các hoạt động hầu như không ngừng nghỉ, ''Washington'' lại lên đường vào ngày [[6 tháng 6]] hướng đến bờ Tây Hoa Kỳ, dừng chân tại Guam và Trân Châu Cảng trước khi về đến Xưởng hải quân Puget Sound vào ngày [[28 tháng 6]].
Hàng 191 ⟶ 190:
{{reflist|2}}
* Ivan Musicant, ''Battleship at War''
* Bài này có các trích dẫn từ nguồn [[:en:Dictionary_of_American_Naval_Fighting_ShipsDictionary of American Naval Fighting Ships]] thuộc [[phạm vi công cộng]].
==Xem thêm==
Hàng 206 ⟶ 205:
*[http://www.hazegray.org/danfs/battlesh/bb56.htm hazegray.org: USS ''Washington'']
*[http://www.usswashington.com/index.htm USS ''Washington'' BB56 Home Port]
 
 
{{lớp thiết giáp hạm North Carolina}}
 
{{DEFAULTSORT:Washington (BB-56)}}
{{các chủ đề|Quân sự|Hàng hải|Mỹ}}
 
{{DEFAULTSORT:Washington (BB-56)}}
[[Thể loại:Tàu chiến trong Thế chiến thứ hai]]
[[Thể loại:Thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ]]