Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Liêu Ninh (tàu sân bay Trung Quốc)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n chú thích, replaced: {{cite web → {{chú thích web (10), {{cite book → {{chú thích sách, {{cite news → {{chú thích báo (2)
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n chú thích, replaced: {{Citation → {{chú thích (4), {{citation → {{chú thích (5)
Dòng 27:
|Ship name= ''Shi Lang''<ref>http://www.jeffhead.com/redseadragon/varyagtransform.htm{{Self-published inline|date=June 2011}}</ref>
|Ship namesake=
|Ship acquired= Mua lại của [[Ukraina]]<ref name=asahi>{{citationchú thích |first=Kenji |last=Minemura |title=China to start construction of 1st aircraft carriers next year |url=http://www.asahi.com/english/Herald-asahi/TKY200812310046.html |archiveurl=http://replay.web.archive.org/20090526192305/http://www.asahi.com/english/Herald-asahi/TKY200812310046.html |date=2008/12/31 |archivedate=May 26, 2009 |publisher=[[Asahi Shimbun]] }}</ref>
|Ship commissioned=
|Ship recommissioned=
Dòng 100:
 
== Bán đấu giá ==
Tháng 4 năm 1998, Bộ trưởng Thương mại Ukraina Roman Shpek thông báo giá thắng thầu là [[Dollar Mỹ|US$]] 20 triệu cho Chong Lot Travel Agency Ltd., một công ty nhỏ có trụ sở tại Hồng Kông. Họ đề xuất kéo ''Varyag'' ra khỏi Biển Đen, qua [[Kênh Suez]] và vòng phía nam châu Á tới [[Macau]], nơi họ sẽ bỏ neo và biến nó thành một khách sạn và sòng bạc nổi.<ref name="nwrc_winter2004_china_ambitions">{{citationchú thích |url=http://www.nwc.navy.mil/press/Review/2004/Winter/art6-w04.htm |archiveurl=http://web.archive.org/web/20061212225857/http://www.nwc.navy.mil/press/Review/2004/Winter/art6-w04.htm |archivedate=December 12, 2006 |title=China's Aircraft Carrier Ambitions: Seeking Truth from Rumors |last1=Storey |first1=I |last2=Ji |first2=Y |publisher=[[Naval War College Review]] |issue=Winter 2004 |volume=57 |issue=1}}</ref> Nó sẽ tương tự như tàu ''[[Tàu sân bay Liên xô Kiev|Kiev]]'' tại [[Thiên Tân]] và ''[[Tàu sân bay Liên xô Minsk|Minsk]]'' tại [[Minsk World]] ở [[Thâm Quyến]].
 
Trước khi cuộc đấu giá đóng, các quan chức tại Macau đã cảnh báo Chong Lot rằng họ sẽ không cho phép tàu ''Varyag'' bỏ neo ở cảng. Tuy nhiên việc mua bán vẫn được tiến hành. Chong Lot thuộc sở hữu của Chin Luck (Holdings) Company tại Hồng Kông. Bốn trong số sáu thành viên của Chin Luck sống tại [[Yên Đài]], Trung Quốc, nơi có một xưởng đóng tàu lớn của hải quân Trung Quốc. Chủ tịch Chin Luck là cựu sỹ quan quân đội [[Quân đội Giải phóng Nhân dân]].<ref name="nwrc_winter2004_china_ambitions" />
Dòng 106:
== Được kéo về Trung Quốc ==
[[Tập tin:Varyag during refitting.jpg|thumb|left|Tàu ''Varyag'' ngày 3 tháng 7 năm 2011, tại Đại Liên, Trung Quốc]]
Vào giữa năm 2000, [[tàu kéo]] của [[Nhà thầu Vận tải Quốc tế|ITC]] Hà Lan ''Suhaili'' với một đội thủy thủ người Philippines đã được thuê để kéo chiếc ''Varyag''. Chong Lot không thể có được giấy phép của [[Thổ Nhĩ Kỳ]] để đi qua eo biển [[Bosphorus]] đầy nguy hiểm; theo [[Hiệp ước Montreux về việc quản lý Eo biển Thổ Nhĩ Kỳ|Hiệp ước Montreux]] năm 1936 Thổ Nhĩ Kỳ có trách nhiệm cho phép tự do lưu thông, nhưng với một số chủ quyền và quyền từ chối. Chiếc tàu to lớn bị kéo quanh Biển Đen tới 16 tháng. Các bộ trưởng cấp cao của Trung Quốc đã tiến hành các cuộc đàm phán tại [[Ankara]] đại diện cho Chong Lot, đề xuất cho khách du lịch Trung Quốc tới thăm nước Thổ Nhĩ Kỳ đang túng tiền nếu con tàu được phép đi qua eo biển. Ngày 1 tháng 11 năm 2001, Thổ Nhĩ Kỳ cuối cùng bớt căng thẳng với quan điểm rằng con tàu gây ra một nguy cơ quá lớn với [[:Category:Cầu tại Istanbul|những cây cầu]] ở [[Istanbul]], và cho phép việc quá cảnh.{{Citationchú thích needed|date=August 2011}}
 
''Varyag'' được hộ tống bởi 27 tàu, gồm 11 tàu kéo và 3 tàu hoa tiêu, và mất sáu giờ để đi qua eo biển; hầu hết các tàu lớn khác mất một giờ rưỡi. Báo chí Nga thông báo 16 hoa tiêu và 250 thủy thủ tham gia vào việc này {{Citationchú thích needed|date=August 2011}}. Lúc 11:45 sáng ngày 2 tháng 11 con tàu hoàn thành thực hiện quá cảnh và hướng về [[Gallipoli]] và [[Canakkale|Çanakkale]] với tốc độ {{convert|5,8|kn}}. Tàu vượt qua [[Dardanelles]] mà không có vấn đề gì.<ref>{{chú thích báo |title=China Aircraft Carrier Dreams |author=Jonathan Eyal |url=http://heresthenews.blogspot.com/2011/07/china-aircraft-carrier-dreams.html |newspaper=Straits Times |date=July 16, 2011}}</ref>
[[Tập tin:USNWC Varyag02.jpg|thumb|left|''Varyag'' đang được kéo tại İstanbul.]]
 
Ngày 3 tháng 11, ''Varyag'' rơi vào một trận [[Cấp Beaufort|cuồng phong cấp 9]] và trôi dạt trong khi đang vượt qua đảo [[Skyros]] Hy Lạp. Các nhân viên cứu hộ đã cố bắt lại con tàu, khi ấy đang trôi về hướng đảo [[Euboea]]. Đội thủy thủy bảy người (ba người Nga, ba người Ukraine và một người Phillippines) vẫn ở trên tàu khi sáu tàu kéo tìm cách nối lại việc kéo tàu. Sau nhiễu nỗ lực thất bại, một trực thăng cứu hộ bờ biển của Hy Lạp đã hạ cánh xuống ''Varyag'' và cứu cả bẩy người. Một tàu kéo đã tìm cách nối được một dây vào tàu vào cuối ngày, nhưng gió lớn đã làm hỏng nỗ lực của hai tàu kéo khác. Ngày 6 tháng 11, Aries Lima (được báo chí đưa tin vừa là người Bồ Đào Nha vừa là người Hà Lan), một thủy thủ từ tàu kéo ''Haliva Champion'', đã chết trong khi đang nỗ lực nối lại các dây kéo. Ngày 7 tháng 11, con tàu to lớn đã được nối lại dây và công việc lai dắt tiếp tục với tốc độ 3 knots.{{Citationchú thích needed|date=August 2011}}
 
[[Kênh Suez]] không cho phép các con tàu "chết" &nbsp;— những tàu không có nguồn năng lượng riêng trên tàu&nbsp;— đi qua nên chiếc tàu được kéo qua [[Eo Gibraltar]], quanh [[Mũi Hảo vọng]], và qua [[Eo biển Malacca]]. Những chiếc tàu kéo tiếp tục duy trì tốc độ {{convert|6|kn|km/h}} trên tuyến hành trình {{convert|15200|nmi|km|sing=on}}, được tiếp nhiên liệu và hậu cần tại [[Piraeus]], Hy Lạp; [[Las Palmas de Gran Canaria|Las Palmas, Canary Islands]]; [[Maputo]], Mozambique; và [[Singapore]] trên đường đi. Các con tàu đi vào hải phận Trung Quốc ngày 20 tháng 2 năm 2002, và tới nơi ngày 3 tháng 3 tại Xưởng đóng tàu [[Đại Liên]] ở đông bắc Trung Quốc. Trung Quốc tiếp tục nói rằng ''Varyag'' sẽ trở thành một sòng bạc. Khi Macau cấp các giấy phép sòng bạc mới tháng 2 năm 2002, Chong Lot không nằm trong danh sách những bên chiến thắng. Con tàu được bỏ neo ở Đại Liên. Tổng chi phí cho việc mua tàu là hơn $30 triệu USD: $25 triệu trả cho chính phủ Ukraine mua tàu, gần $500,000 phí quá cảnh, và khoảng $5 triệu cho việc lai dắt.{{Citationchú thích needed|date=August 2011}}
 
== Hiện đại hóa và tái trang bị ==
Dòng 120:
Tàu ''Varyag'' được đưa vào một [[ụ khô]] tại [[Đại Liên]] ({{Coord|38.9414|121.6447|name=Varyag}}) tháng 6 năm 2005. Vỏ của nó được [[phun cát]] và giàn giáo được dựng quanh tàu. [[Tàu sân bay#Cấu hình sàn bay|Đảo]] chỉ huy được sơn phủ lớp sơn đỏ thường dùng để xử lý kim loại han rỉ. Ngày 24 tháng 10 năm 2006, bản điện tử của tờ báo ''Kommersant'' thông báo rằng Nga có kế hoạch bán tới 50 máy bay chiến đấu [[Su-33]] cho Trung Quốc qua [[Rosoboronexport]], trong một hợp đồng trị giá $2,5 tỷ. Tháng 3 năm 2009 ''[[Moskovskij Komsomolets]]'' thông báo rằng những cuộc đàm phán này đã đổ vỡ vì Nga sợ rằng Trung Quốc có thể bắt đầu sản xuất các phiên bản xuất khẩu rẻ hơn của Su-33 với các hệ thống và hệ thống điện tử Trung Quốc, gây ảnh hưởng tới việc xuất khẩu của Nga, giống điều từng xảy ra với [[Shenyang J-11#J-11|J-11B]] (Phiên bản Trung Quốc của [[Su-27]]).<ref>[http://www.milavia.net/aircraft/su-33/su-33.htm Sukhoi Su-33 "Navy Flanker"] Milavia article on the Su-33</ref>
 
[[Jane's Fighting Ships]] bình luận rằng ''Varyag'' có thể đã được đổi tên lại là ''Thi Lang'' và được trao [[số cờ hiệu]] 83. Jane's lưu ý rằng cả cái tên và số hiệu đều chưa được xác nhận. [[Thi Lang]] là một vị đô đốc thời nhà Minh-Thanh, người đã đánh bại hải quân của [[Vương quốc Đông Ninh|các hậu duệ]] của [[Trịnh Thành Công]] và chinh phục [[Đài Loan]] năm 1681.<ref>{{chú thích sách |last=Saunders |first=Stephen (editor) |authorlink= |coauthors= |title=[[Jane's Fighting Ships|Jane's Fighting Ships Vol. 110, 2007-2008]] |year=2007 |publisher=Jane’s Information Group |location=Coulsdon | page =122 |isbn= }}</ref> Tháng 10 năm Jane's Navy International lưu ý rằng "công việc sửa chữa và trang bị đang được tiếp tục và con tàu được dự kiến bắt đầu thử nghiệm ngoài biển trong năm 2008".<ref name="janes">Jon Rosamond, 'China completes joint exercise with UK aircraft carrier,' Jane's Navy International, November 2007, p.6</ref> Vào cuối năm 2008, Asahi Shimbun thông báo rằng con tàu đang "gần hoàn tất".<ref name=asahi>{{citationchú thích |first=Kenji |last=Minemura |title=China to start construction of 1st aircraft carriers next year |url=http://www.asahi.com/english/Herald-asahi/TKY200812310046.html |archiveurl=http://replay.web.archive.org/20090526192305/http://www.asahi.com/english/Herald-asahi/TKY200812310046.html |date=2008-12-31 |archivedate=26 tháng 5 năm 2009 |publisher=[[Asahi Shimbun]] }}</ref> Ngày 27 tháng 4 năm 2009 ''Varyag'' được thông báo đã được đưa vào một ụ khô khác, "rõ ràng để lắp động cơ và các thiết bị nặng khác".<ref name=strategypage>{{chú thích web|url=http://www.strategypage.com/dls/articles/Chinese-Carrier-Goes-Into-Dry-Dock-5-14-2009.asp |title=Chinese Carrier Goes Into Dry Dock |publisher=Strategypage.com |date=14 tháng 5 2009 |accessdate=9 tháng 5 2011}}</ref> Một cột radar mới được lắp trên siêu cấu trúc của Varyag ngày 15 tháng 12 năm 2009.<ref name="Latest updates on Varyag">{{chú thích web|url=http://www.strategypage.com/htmw/htnavai/articles/20091217.aspx |title=Naval Air: An Important Varyag Update |publisher=Strategypage.com |date=17 tháng 12 năm 2009 |accessdate=9 tháng 5 năm 2011}}</ref>
 
Năm 2009, tại cơ sở nghiên cứu Hải quân Vũ Hán gần [[hồ Hoàng Gia]] phía tây nam [[Vũ Hán]], PLAN đã xây dựng một sàn huấn luyện và hậu cần và đảo chỉ huy giả theo kích thước thật của ''Varyag''.<ref name="Photos of Varyag progress and Wuhan training center">{{chú thích web|url=http://www.jeffhead.com/redseadragon/varyagtransform.htm |title=The Rising Sea Dragon In Asia Varyag Transformation |publisher=Jeffhead.com |date=4 tháng 2 năm 2011 |accessdate=9 tháng 5 năm 2011}}</ref><ref>{{citationchú thích |url=http://www.nytimes.com/2009/10/21/world/asia/21iht-letter.html |title=Watching Beijing's Air Power Grow |first=Michael |last=Forsythe. |publisher=The New York Times |date=20 tháng 10 năm 2009}}</ref>
 
Các cảm biến đã được quan sát gồm [[Mạng quét điện tử chủ động]] (AESA) và [[Type 381 Radar|Sea Eagle radar]]. Các vũ khí đã quan sát gồm [[Type 1030 CIWS]], và hệ thống tên lửa [[TY-90#FL-3000N|FL-3000N]]. Mọi người cũng thấy những ống phóng [[tên lửa chống tàu]] cũ đã được bít lại và sẽ không được sử dụng, vì thế có nhiều khoảng không bên trong hơn cho nhà chứa máy bay hay nhà kho. Nga có kế hoạch thực hiện điều tương tự khi họ hiện đại hóa chiếc tàu chị em của ''Varyag'' tàu [[Tàu sân bay nga Đô đốc Kuznetsov|''Kuznetsov'']].<ref>http://rusnavy.com/nowadays/concept/reforms/rebuildingthecarrier/</ref> [[Kamov Ka-31]] đã được xác nhận là đã mua và hoạt động trong PLAN, và có thể hình thành nên cơ sở [[Cảnh báo sớm và kiểm soát trên không]] cho con tàu.<ref>{{chú thích web |url=http://cnair.top81.cn/Ka-31_Z-8AEW.htm|title=Surveillance Aircraft|publisher=Chinese Military Aviation |accessdate=26 tháng 3 năm 2011}}</ref>
Dòng 130:
== Các cuộc thử nghiệm trên biển ==
{{wikinews|China sends its first aircraft carrier to sea}}
Ngày 10 tháng 8 năm 2011, tàu ''Varyag'' bắt đầu các cuộc [[thử nghiệm trên biển]]. Một nhà phân tích của RSIS lưu ý rằng Trung Quốc vẫn còn một chặng đường dài để đưa tàu vào hoạt động, nhưng rất quyết tâm làm việc này.<ref>{{citationchú thích |first1=Richard A|last1=Bitzinger |first2=Paul T|last2= Mitchell|title=Soviet aircraft carrier Varyag: Shape of things to come? |url=http://www.rsis.edu.sg/publications/Perspective/RSIS0742011.pdf |series=RSIS Commentaries |number=74/2011 |date=May 6, 2011 |publisher=[[S. Rajaratnam School of International Studies]] (RSIS)}}</ref> Ngày 15 tháng 8 năm 2011, tàu ''Varyag'' về đậu tại Đại Liên, hoàn thành cuộc thử nghiệm bốn ngày trên biển.<ref name=xhna20110815>{{chú thích web | title= China's first aircraft carrier completes sea trial | url= http://news.xinhuanet.com/english2010/video/2011-08/15/c_131050307.htm | publisher= Xinhua News Agency | date= August 15, 2011 | accessdate=August 15, 2011}}</ref> Ngày 29 tháng 11 năm 2011 chiếc tàu sân bay rời cảng cho cuộc thử nghiệm lần thứ hai.<ref>{{chú thích web|url=http://maritimesecurity.asia/free-2/maritime-security-asia/chinas-first-aircraft-carrier-starts-second-trial/ |title=China’s first aircraft carrier starts second trial |publisher=MaritimeSecurity.Asia |date= |accessdate=December 15, 2011}}</ref><ref>{{chú thích web|author=AFP |url=http://www.manilatimes.net/index.php/news/world/12229-chinas-first-aircraft-carrier-starts-2nd-trial |title=China’s first aircraft carrier starts 2nd trial &#124; World |publisher=Manilatimes.net |date=November 30, 2011 |accessdate=December 15, 2011}}</ref> Tháng 11 năm 2011 chiếc tàu được vệ tinh chụp ảnh trong khi đang thực hiện các cuộc thử nghiệm trên biển.<ref>{{chú thích web|author=Agencies |url=http://www.guardian.co.uk/world/2011/dec/15/us-satellite-china-aircraft-carrier |title=US satellite snaps China's first aircraft carrier at sea &#124; World news &#124; guardian.co.uk |publisher=Guardian |date= |accessdate=December 15, 2011}}</ref> Tàu sân bay này dự kiến được chuyển giao cho PLAN năm 2012.<ref>{{chú thích web|author=10.08.2011 |url=http://flot.com/news/navy/index.php?ELEMENT_ID=87052 |title=Китай начал ходовые испытания своего первого авианосца |publisher=Flot.com |date= |accessdate=December 15, 2011}}</ref> Chiếc tàu sân bay hoàn thành sáu cuộc thử nghiệm trên biển ngày 17 tháng 5 năm 2012 và quay trở lại Đại Liên.
 
==Bàn giao cho hải quân PLAN==