Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vyacheslav Mikhailovich Molotov”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Mishae (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Infobox Officeholder|name=Vyacheslav Molotov<br/><small>Вячесла́в Мо́лотов</small>
|image=Molotov.bra.jpg|nationality=[[Nga]]|spouse=[[Polina Zhemchuzhina]]
|name = Vyacheslav Molotov<br /> <small>Вячесла́в Мо́лотов</small>
|order = Chủ tịch [[Hội đồng Dân uỷ Nhân dân]]|term_start=19 tháng 12, 1930
|image = Molotov.bra.jpg
|term_end=6 tháng 5, 1941|predecessor=[[Alexei Rykov]]|successor=[[Iosif Vissarionovich Stalin|Joseph Stalin]]|order2=Bộ trưởng ngoại giao|term_start2=1939-1949 và 1953-1956|term_end2=|predecessor2=[[Maxim Litvinov]]|successor2=[[Andrey Vyshinsky]] năm 1949 và [[Dmitri Shepilov]] năm 1956|birth_date={{birth date|1890|3|9|df=y}}|birth_place=[[Sovetsk, Kirov Oblast|Kukarka]], [[Đế quốc Nga]]|death_date = {{death date and age|1986|11|8|1890|3|9|df=y}}
|nationality = [[Nga]]
|death_place = [[Moskva]], [[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga]], [[Liên Xô]]}}
|spouse = [[Polina Zhemchuzhina]]
|order = Chủ tịch [[Hội đồng Dân uỷ Nhân dân]]
|term_start = 19 tháng 12, 1930
|term_end = 6 tháng 5, 1941
|predecessor = [[Alexei Rykov]]
|successor = [[Joseph Stalin]]
|order2 = Bộ trưởng ngoại giao
|term_start2 = 1939-1949 và 1953-1956
|term_end2 =
|predecessor2= [[Maxim Litvinov]]
|successor2 = [[Andrey Vyshinsky]] năm 1949 và [[Dmitri Shepilov]] năm 1956
|birth_date = {{birth date|1890|3|9|df=y}}
|birth_place = [[Sovetsk, Kirov Oblast|Kukarka]], [[Đế quốc Nga]]
|death_date = {{death date and age|1986|11|8|1890|3|9|df=y}}
|death_place = [[Moskva]], [[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga]], [[Liên Xô]]
}}
 
:''Molotov dẫn đến đây. về các nghĩa khác, xem [[Molotov (định hướng)]].''
 
'''Vyacheslav Mikhailovich Molotov''' ({{lang-ru|Вячесла́в Миха́йлович Мо́лотов}}, ''Vjačeslav Michajlovič Molotov''; {{OldStyleDate|9 tháng 3|1890|25 tháng 2}} – 8 tháng 11 năm 1986) là một [[chính trị gia]] và [[Ngoại giao|nhà ngoại giao]] [[Liên xô]], một nhân vật nổi bật trong [[Chính phủ Liên xô]] từ thập niên 1920, khi ông nổi lên trở thành [[người được bảo hộ]] của [[Iosif Vissarionovich Stalin|Joseph Stalin]], đến năm 1957, khi ông bị loại khỏi Đoàn chủ tịch (Bộ chính trị) Uỷ ban Trung ương bởi [[Nikita Sergeyevich Khrushchyov|Nikita Khrushchev]]. Ông là thủ phạm chính của cuộc [[Đại thanh trừng]] và người đại diện của Liên xô ký vào [[Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau]] giữa [[Phát xít Đức]] và Liên xô năm 1939 (cũng được gọi là [[Hiệp ước Molotov-Ribbentrop]]) cũng như trong các cuộc đàm phán thời hậu chiến. [[Cocktail Molotov]] (bom xăng) được người [[Phần Lan]] đặt theo tên ông trong thời gian diễn ra cuộc [[Chiến tranh mùa Đông]].
 
== Xuất thân và tuổi trẻ ==
Molotov, tên khi sinh '''Vyacheslav Mikhailovich Skriabin''' (Вячеслав Михайлович Скря́бин), sinh tại làng [[Sovetsk, Kirov Oblast|Kukarka]] (hiện là Sovetsk tại [[Kirov Oblast]]), là con trai của một thư ký tiệm buôn. Trái với một lời đồn đại sai lầm thường được nhắc lại, ông không liên quan tới nhà soạn nhạc [[Alexander Scriabin]].<ref>Montefiore, The Court of the Red Tsar, pp. 39, 62n.</ref> Ông được giáo dục trong một ngôi trường cấp hai tại [[Kazan]], và gia nhập phái [[Bolshevik]] của [[Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga]] năm 1906. Để phục vụ công việc chính trị ông lấy [[biệt hiệu]] '''Molotov''' (từ từ ''molot'' trong tiếng Nga, ''"[[búa]]"''). Ông bị bắt năm 1909 và bị lưu đày hai năm tại [[Vologda]]. Năm 1911 ông ghi tên vào trường bách khoa [[StSaint Petersburg]], và cũng gia nhập ban biên tập tờ ''[[Pravda]]'', tờ báo bí mật của những người Bolshevik, mà [[Joseph Stalin]] làm tổng biên tập. Năm 1913 Molotov một lần nữa bị bắt và bị trục xuất tới [[Irkutsk]], nhưng vào năm 1915 ông trốn thoát và quay lại thủ đô.
 
== Buổi đầu sự nghiệp ==
 
== Buổi đầu sự nghiệp ==
Năm 1916, Molotov trở thành thành viên uỷ ban Đảng Bolshevik tại [[Petrograd]]. Khi cuộc [[Cách mạng tháng 2]] diễn ra vào tháng 2 năm 1917, ông là một trong số ít người Bolshevik đứng nổi lên ở thủ đô. Dưới sự lãnh đạo của ông tờ ''[[Pravda]]'' chuyển sang lập trường "cánh tả" đối lập với Chính phủ Lâm thời được hình thành sau cuộc cách mạng. Vì thế, khi Stalin quay trở lại thủ đô, ông đã đảo ngược quan điểm của Molotov. Tuy nhiên, khi nhà lãnh đạo đảng, [[Vladimir Lenin]], tới nơi, ông giành quyền của Stalin. Dù có điều này, Molotov đã trở thành một người được bảo hộ và đồng minh thân cận của Stalin, một liên minh không chỉ mang lại cho ông vinh quang sau này, hà hầu như chắc chắn là cả mạng sống của ông; Molotov là người duy nhất trong số bốn nhà lãnh đạo phái [[Old Bolshevik]] còn sống sót sau cuộc Đại thanh trừng. Ba người kia là [[Mikhail Kalinin|Kalinin]] (mất năm 1946), [[Alexandra Kollontai]] (mất năm 1952) và chính Stalin (mất năm1953). Molotov trở thành một thành viên của [[Xô viết Petrograd|Uỷ ban Quân sự Cách mạng]] đề ra kế hoạch cho cuộc [[Cách mạng tháng 10]] (đưa những người Bolshevik lên nắm quyền lực).
 
Năm 1918, Molotov được gửi tới [[Ukraina]] để tham gia vào cuộc [[Nội chiến Nga|nội chiến]] khi ấy đang bùng phát. Bởi ông không phải là một nhân vật quân sự, Molotov không tham gia vào việc chiến đấu. Năm 1920, ông trở thành thư ký Uỷ ban Trung ương Đảng Bolshevik Ukraina. Lenin đã gọi ông trở về Moscow năm 1921, đưa ông vào làm thành viên đầy đủ bên trong [[Uỷ ban Trung ương]] và [[Orgburo]], và giao ông trách nhiệm thư ký của đảng. Năm 1922, Stalin trở thành Tổng thư ký Đảng Bolshevik với Molotov trên thực tế là thư ký "thứ hai". Dưới sự bảo trợ của Stalin, Molotov trở thành một thành viên [[Bộ chính trị]] năm 1926.
 
Trong cuộc tranh giành quyền lực sau cái chết của Lenin năm 1924, Molotov vẫn là một người ủng hộ trung thành của Stalin chống lại nhiều đối thủ của ông ta: đầu tiên là [[LeonLev Davidovich Trotsky|Lev Trotsky]], sau đó là [[Lev Kamenev]] và [[Grigory Zinoviev]] và cuối cùng là [[Nikolai Ivanovich Bukharin|Nikolai Bukharin]]. Ông trở thành nhân vật lãnh đạo trong "Trung tâm Stalinist" của đảng, cũng bao gồm [[Kliment Yefremovich Voroshilov|Kliment Voroshilov]], [[Lazar Kaganovich]], [[Grigoriy Ordzhonikidze|Sergo Ordzhonikidze]] và [[Sergei Kirov]]. Trotsky và những người ủng hộ ông đã đánh giá thấp Molotov như nhiều người khác cũng từng sai lầm như vậy. Trotsky đã gọi ông là "nhân vật xoàng xĩnh", trong khi chính Molotov lại làm ra vẻ thông thái rởm khi khiển trách các đồng chí gọi ông là 'Mông Đá' bằng cách nói rằng Lenin thực tế đã gọi ông là 'Mông Sắt'.<ref>Kerhsaw, Ian (quoted in) ''Fateful Choices: Ten Decisions That Changed the World, 1940-1941'', New York: The Penguin Press, 2007 page 243.</ref> Tuy nhiên, cái vẻ ngoài đần độn che dấu một đầu óc sâu sắc và một tài năng hành chính to lớn. Ông chủ yếu hoạt động phía sau và tạo dựng hình ảnh như một quan chức vô vị - ví dụ, ông là lãnh đạo Bolshevik duy nhất luôn mặc một kiểu bộ đồ và ca vát (kiểu cách học được từ Lenin này đã thay đổi ở những năm sau đó).
 
== Thủ tướng ==
[[Tập tin:Great Purge Stalin Voroshilov Kaganovich Zhdanov Molotov .jpg|nhỏ|Một danh sách từ cuộc Đại thanh trừng được ký bởi Molotov, Stalin, Voroshilov, Kaganovich và Zhdanov]]
Khi đồng minh của Bukharin, [[Alexei Rykov]], bị loại khỏi chức Chủ tịch [[Hội đồng Dân uỷ Nhân dân]] (tương đương [[thủ tướng]]) vào tháng 12 năm 1930, Molotov lên kế vị.
Hàng 41 ⟶ 25:
Ở chức vụ này, ông giám sát chương trình [[Tập thể hoá ở Liên xô|Tập thể hoá nông nghiệp]] của chế độ Stalin. Molotov đã thực hiện sách lược của Stalin bằng cách sử dụng một sự phối hợp vũ lực và tuyên truyền để đàn áp sự kháng cự của người nông dân với tập thể hoá, gồm cả việc trục xuất hàng triệu người ''[[kulak]]'' (nông dân có tài sản) tới các [[trại lao động]]. Một số lượng lớn người bị trục xuất đã chết vì làm việc quá sức. Ông đã ký ''"[[Law of Spikelets]]"'' và đích thân lãnh đạo Uỷ ban Đặc biệt về Vận tải Ngũ cốc tại [[Ukraina]], chiếm lấy số lượng được thông báo lên tới 4.2 triệu tấn ngũ cốc từ những người nông dân, trong một [[nạn đói]] ở mức độ rộng lớn (được biết tới ở Ukraina là [[Holodomor]]). Các nhà sử học hiện nay ước tình rằng từ 7 tới 11 triệu người đã chết, hoặc bởi đói khát hoặc trong các trại lao động, trong quá trình tập thể hoá. Molotov cũng giám sát việc thực hiện [[Kế hoạch năm năm]] lần thứ nhất để công nghiệp hoá nhanh chóng.
 
[[Sergei Kirov]] bí thư thành ủy Leningrad đã bị một người có tình cảm với những người đối lập ám sát năm 1934. Hiện một số nhà sử học (đáng chú ý là [[Edvard Radzinsky]] trong cuốn 'Stalin' của ông) tin rằng do Stalin ra lệnh, gây ra một cuộc khủng hoảng thứ hai, cuộc [[Đại thanh trừng]]. <!--Cuộc đại thanh trừng diễn ra trong suốt năm 1935 và 1936 và lên tới đỉnh điểm năm 1937-38 với những [[Vụ xử án Moscow]], trong đó hầu hết các nhà lãnh đạo Bolshevik thời trước Stalin đều bị kết án hay bị quàng những cái án tưởng tượng{{Fact|date=November 2008}} về [[phản bội]] và [[gián điệp]], và hàng triệu người Nga khác đã bị trục xuất tới các trại lao động{{Fact|date=November 2008}}-->. Dù cuộc Đại thanh trừng được tiến hành bởi các lãnh đạo cảnh sát mật của Stalin là [[Genrikh Yagoda]], [[Nikolai Yezhov]] và [[Lavrentiy Pavlovich Beriya|Lavrenty Beria]], Molotov cũng tham gia tích cực vào quá trình. Stalin thường yêu cầu ông và các thành viên khác của bộ chính trị ký các lệnh tử hình các nạn nhân nổi tiếng của cuộc thanh trừng, và Molotov luôn tuân lệnh mà không bao giờ có câu hỏi nào.<ref>{{chú thích sách|author=Simon Montefiore, ''|title=Stalin: The Court of the Red Tsar''. |place=N.Y.: |publisher=Knopf, |năm=2004.}}</ref> Không có bằng chứng về việc Molotov tìm cách làm giảm nhẹ các cuộc thanh trừng hay thậm chí cứu các cá nhân, như một số lãnh đạo Xô viết khác từng làm. Trong cuộc [[Đại thanh trừng]], ông đã đích thân thông qua các danh sách tài liệu 372 vụ hành quyết, nhiều hơn bất kỳ người nào khác, kể cả Stalin<ref>http://stalin.memo.ru/images/intro1.htm</ref>
 
Dù có thiệt hại lớn về nhân mạng, Liên bang Xô viết dưới thời thủ tướng của Molotov đã có những bước tiến to lớn trong việc chấp nhận và áp dụng rộng rãi các kỹ thuật nông nghiệp và công nghiệp (Xem [[kinh tế chỉ huy]]). Sự trỗi dậy của [[Adolf Hitler]] tại nước [[Đức Phát xít]] đã dẫn tới các nhu cầu lớn về phát triển ngành công nghiệp quân sự hiện đại và Molotov và Dân uỷ phụ trách công nghiệp, [[Lazar Kaganovich]], chủ yếu chịu trách nhiệm chỉ đạo việc này. Quả thực, chính ngành công nghiệp vũ khí đã cho phép Liên xô giành được ưu thế trong [[Thế chiến II]]. Tuy nhiên, những cuộc thanh trừng trong giới lãnh đạo [[Hồng quân]], trong đó có sự tham gia của Molotov, đã làm suy yếu khả năng quốc phòng của Liên xô. Điều này ở một số mặt là nguyên nhân của những thảm họa quân sự Liên xô năm 1941 và 1942, chủ yếu bởi sự không sẵn sàng cho chiến tranh. Nó cũng dẫn tới việc làm tan rã tầng lớp nông dân và sự thay thế nó bằng nền nông nghiệp tập thể hoá để lại một di sản sản xuất nông nghiệp năng suất thấp kinh niên mà chế độ Liên xô chưa bao giờ vượt qua được.
Hàng 47 ⟶ 31:
Sau các cuộc thanh trừng, Molotov nói chung được coi là phó của Stalin và người kế nhiệm trong tương lai của ông ta, dù Molotov vẫn cẩn thận để không khuyến khích bất kỳ một đề xuất nào như vậy. [[Nhà báo]] [[Hoa Kỳ]] [[John Gunther]] đã viết vào năm 1938: ''"Molotov có một vầng trán đẹp, và có vẻ ngoài và hành động như một vị giáo sư y học Pháp - có trật tự, chính xác, mô phạm. Ông là... một con người của trí thông minh và ảnh hưởng hạng nhất. Molotov là một [[người ăn chay]] và một [[người kiêng rượu]]. Stalin trao cho ông thực hiện hầu hết các công việc bẩn thỉu"''.
 
== Bộ trưởng ngoại giao ==
 
[[Tập tin:MolotovRibbentropStalin.jpg|200px|phải|nhỏ|Molotov ký hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau Xô-Đức; phía sau ông là Ribbentrop và Stalin.]]
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 183-1984-1206-523, Berlin, Verabschiedung Molotows.jpg|200px|phải|nhỏ|Phái bộ tới [[Đức Quốc Xã]] tháng 11 năm 1940]]
Hàng 57 ⟶ 40:
Theo các điều khoản của Hiệp ước, Stalin, trên thực tế, được trao quyền chiếm và sáp nhập [[Estonia]], [[Latvia]] và [[Bessarabia]], cũng như phần của Ba Lan phía đông [[Đường Curzon]] (một khu vực trong đó [[Ukraina|người Ukraina]] và [[Belarus|người Belorus]] chiếm đa số). Ông cũng được tự do hành động trong quan hệ với [[Phần Lan]]. Trong cuộc [[Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan]] diễn ra sau đó, một sự tổng hợp của sự kháng cự mạnh mẽ của Phần Lan cộng với sự quản lý chiến tranh kém cỏi của Liên xô đã dẫn tới việc Phần Lan chỉ mất nhiều phần lãnh thổ chứ không phải toàn bộ đất nước. Trong cuộc xung đột này, người Phần Lan đã sáng tạo ra thuật ngữ [[cocktail Molotov]] để chỉ một thiết bị gây cháy tự tạo đơn giản có thể chống lại xe tăng. Đức được phép chiếm hai phần ba Ba Lan ở phía tây (đa số đã được sáp nhập vào Đức), cũng như [[Litva]], nhưng Hiệp ước sau này đã được sửa đổi để đưa Litva vào trong vùng ảnh hưởng Liên xô đổi lấy một biên giới dễ chịu hơn tại Ba Lan. Tất cả các cuộc sáp nhập này đã dẫn tới những đau thương và thiệt hại nhân mạng to lớn ở các quốc gia bị chiếm đóng và phân chia bởi hai nhà nước độc tài.
 
== Thế chiến II ==
Hiệp ước Molotov-Ribbentrop điều phối quan hệ Xô-Đức cho tới tháng 6 năm 1941 khi Hitler, sau khi đã chiếm [[Pháp]] và trung lập hoá [[Anh]], quay sang phía đông và tấn công [[Liên bang Xô viết]]. Molotov cũng chịu trách nhiệm thông báo với người dân Liên xô về vụ tấn công, khi ông thông báo chiến tranh, thay cho Joseph Stalin. [http://historicalresources.org/2008/08/26/molotov-reaction-to-german-invasion-of-1941 Bài phát biểu] của ông, được phát sóng trên đài ngày [[22 tháng 6]], đóng một vai trò ở Nga tương tự như những bài phát biểu của [[Winston Churchill]] ở Anh, và [[:ru:Наше дело правое, враг будет разбит, победа будет за нами|để lại dấu ấn]] trên văn hoá Nga.
 
Hàng 65 ⟶ 48:
 
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 183-R67561, Potsdamer Konferenz, Konferenztisch.jpg|nhỏ|[[Hội nghị Potsdam]]: [[Clement Attlee]], [[Ernest Bevin]], Molotov, [[Josef Stalin]], [[William Daniel Leahy]], [[James F. Byrnes]], [[Harry S. Truman]] và những người khác.]]
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 183-R86965, Potsdamer Konferenz, Gruppenbild.jpg|nhỏ|Ngồi (từ trái): [[Clement Attlee]], [[Harry S. Truman]], [[Iosif Vissarionovich Stalin|Josef Stalin]]; phía sau: [[William Daniel Leahy]], [[Ernest Bevin]], [[James F. Byrnes]] và Molotov.]]
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 183-14059-0016, Potsdamer Konferenz, Molotow, Byrnes, Eden.jpg|nhỏ|Các bộ trưởng ngoại giao: Molotov, [[James F. Byrnes]] và [[Anthony Eden]] trong một khoảng thời gian nghỉ tại hội nghị, tháng 7 năm 1945.]]
Từ năm 1945 tới năm 1947 Molotov tham gia vào tất cả bốn hội nghị [[ngoại trưởng]] các quốc gia chiến thắng trong [[Thế chiến II]]. Nói chung, ông được coi là người có thái độ không hợp tác với các cường quốc phương Tây.
Hàng 71 ⟶ 54:
[[Winston Churchill]] trong những cuốn hồi ký thời chiến của mình đã liệt kê nhiều cuộc gặp với Molotov. Thừa nhận ông như một ''"người có khả năng kiệt xuất và tàn nhẫn máu lạnh,"'' Churchill đã kết luận: ''"Trong việc tiến hành công việc ngoại giao, [[Mazarin]], [[Talleyrand]], [[Metternich]], sẽ đón chào ông vào cùng hội với họ, nếu có một thế giới khác trong đó những người Bolshevik tự cho mình tham gia."''<ref>The Gathering Storm, pp. 368-369.</ref>
 
== Nghề nghiệp thời hậu chiến ==
 
Ở thời hậu chiến, vị trí của Molotov dần suy giảm. Năm 1949, ông bị thay thế chức vụ Bộ trưởng ngoại giao bởi [[Andrey Vyshinsky]], dù vẫn giữ được chức Phó thủ tướng và thành viên của Bộ chính trị. Sau cái chết của [[Andrei Zhdanov]], người được coi là ứng cử viên kế vị Stalin, Stalin và Beria bắt đầu lên kế hoạch một cuộc thanh trừng mới, sẽ loại bỏ hầu hết các lãnh đạo cũ trong đảng như Molotov khỏi các chức vụ của họ. Các lãnh đạo mới, như [[Georgii Malenkov]] và [[Nikita Khrushchev]], được sự bảo trợ của Stalin.
 
Hàng 87 ⟶ 69:
:''"Thực tế rằng chiến tranh hạt nhân có thể bùng phát, liệu đó không phải là cuộc đấu tranh giai cấp? Không có sự thay thế cho đấu tranh giai cấp. Đây là một câu hỏi rất nghiêm túc. Sự cùng sống và cùng chấm dứt không phải là cùng tồn tại hoà bình. Tóm lại, thỉnh thoảng chúng ta đã dừng lại trong một thời gian, và dưới thời Stalin chúng ta đã dừng lại ở điểm nơi những kẻ đế quốc cảm thấy có thể yêu cầu thẳng thừng: hoặc đầu hàng và từ bỏ các quan điểm, hoặc có nghĩa là chiến tranh. Tới nay những kẻ đế quốc vẫn chưa từ bỏ điều đó"''.
 
Molotov đã được khôi phục một phần dưới thời [[Leonid Ilyich Brezhnev|Leonid Brezhnev]] và được cho phép tái gia nhập Đảng Cộng sản năm 1984 dưới thời [[Konstantin Ustinovich Chernenko|Konstantin Chernenko]]. Ông chết ở tuổi 96 tại [[Moskva]] tháng 11 năm 1986, chỉ năm năm trước sự giải tán Liên xô. Ở thời điểm qua đời, ông là người cuối cùng trong số những nhân vật chính tham gia các sự kiện năm 1917 còn sống. Ông được chôn cất tại [[Nghĩa trang Novodevichy]], [[Moskva]]. Một tuyển tập các bài phỏng vấn với Molotov, ''"Molotov Remembers: Inside Kremlin Politics"'', đã được Felix Chuev xuất bản sau khi ông chết. Năm 2005 cháu trai của Molotov và là người trùng tên với ông, nhà khoa học chính trị Nga [[Vyacheslav Nikonov]] (sinh năm 1956), đã viết một cuốn tiểu sử của ông.
 
Cuối năm 1989, hai năm trước sự sụp đổ của Liên xô, Đại hội Đại biểu Nhân dân Liên xô và chính phủ của [[Mikhail Sergeyevich Gorbachyov|Mikhail Gorbachev]] đã chính thức lên án Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, thừa nhận rằng việc sáp nhập các nước vùng Baltic và sự phân chia Ba Lan là bất hợp pháp.
 
Molotov là một trong số ít người, nếu không nói là người duy nhất từng bắt tay với các lãnh đạo Liên Xô [[Vladimir Ilyich Lenin|Vladimir Lenin]] và [[Iosif Vissarionovich Stalin|Joseph Stalin]], Chủ tịch [[Trung Quốc]] [[Mao Trạch Đông]], lãnh đạo [[Đức Quốc Xã]] [[Adolf Hitler]], Thủ tướng [[Anh]] [[Winston Churchill]] và các Tổng thống [[Hoa Kỳ]] [[Franklin D. Roosevelt]] và [[Harry S. Truman]] cũng như [[Thủ tướng Anh]] [[Anthony Eden]], Thủ tướng Liên Xô [[Nikita Khrushchev]] và [[Josip Broz Tito|Nguyên soái Josip B. Tito]] của [[Nam Tư]].
 
== Xem thêm ==
* [[Quan hệ Xô-Đức trước năm 1941]]
* [[Kế hoạch Molotov]]
* [[Hiệp ước Molotov-Ribbentrop]]
* [[Giới tuyến Molotov]]
* [[Cocktail Molotov]]
 
== Tham khảo ==
{{reflistTham khảo}}
* Chuev, Felix (ed), ''Molotov Remembers: Inside Kremlin Politics'' (1993). Dee Ivan Inc. ISBN 1-56663-027-4
* Raymond H. Anderson, "Vyacheslav M. Molotov Is Dead; Close Associate of Stalin Was 96", ''The New York Times'', 11 November 1986.
* The Associated Press, "200 Attend Molotov Funeral in Private Rites at Cemetery," ''The New York Times'', 13 November 1986.
* Vladislav Zubok and Constantine Pleshakov, ''Inside the Kremlin's Cold War'', 1996, Harvard University Press, Cambridge, Mass. ISBN 0-674-45532-0
* Montefiore, Simon Sebag, ''Stalin: The Court of the Red Tsar'' (2003). ISBN 1-84212-726-8
 
== Liên kết ngoài ==
{{wikiquote}}
{{Commonscat|Vyacheslav Molotov}}
* [http://www.revolutionarydemocracy.org/rdv1n1/molotov.htm V.M. Molotov and the Liquidation of Socialism in the USSR]
* [http://alsos.wlu.edu/qsearch.aspx?browse=people/Molotov,+Vyacheslav Annotated bibliography for Vyacheslav Molotov from the Alsos Digital Library for Nuclear Issues]
* [http://www.archive.org/details/TheMeaningOfTheSoviet-germanNon-aggressionPact ''The Meaning of the Soviet-German Non-Aggression Pact'' Molotov speech to the Supreme Soviet on Aug. 31, 1939]
* [http://historicalresources.org/2008/08/26/molotov-reaction-to-german-invasion-of-1941/ Reaction to German Invasion of 22 June 1941]
 
{{start box}}
Hàng 131 ⟶ 113:
{{Liên kết bài chất lượng tốt|en}}
 
{{Persondata|NAME=Molotov, Vyacheslav |ALTERNATIVE NAMES=Молотов, Вячеслав
{{Persondata
|SHORT DESCRIPTION=|DATE OF BIRTH=9 tháng 3 năm 1890|PLACE OF BIRTH=[[Sovetsk, Kirov Oblast]], [[Đế chế Nga]]|DATE OF DEATH=8 tháng 11 năm 1986|PLACE OF DEATH=[[Moskva]], [[Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga]], [[Liên xô]]
|NAME= Molotov, Vyacheslav
|ALTERNATIVE NAMES=Молотов, Вячеслав
|SHORT DESCRIPTION=
|DATE OF BIRTH= 9 tháng 3 năm 1890
|PLACE OF BIRTH= [[Sovetsk, Kirov Oblast]], [[Đế chế Nga]]
|DATE OF DEATH= 8 tháng 11 năm 1986
|PLACE OF DEATH= [[Moskva]], [[Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga]], [[Liên xô]]
 
}}