Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đế quốc Ba Tư”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Tài liệu tham khảo: Thay bản mẫu
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n cosmetic change using AWB
Dòng 1:
{{Lịch sử Iran}}
'''Đế quốc Ba Tư''' là một đế quốc tại [[Cao nguyên Iran]] và các khu vực xung quanh. Đế quốc Ba Tư là một loạt các [[đế quốc]] trong lịch sử cai trị vùng Cao nguyên Iran (Irān - “Đất của các chủng tộc Aryan”). Theo một số quyển sử do người [[Châu Âu|Âu]] viết, đế quốc này bắt nguồn từ hai Vương quốc Đông Ba Tư ([[Parsua]]) và Tây Ba Tư ([[Anshan]]) do [[nhà Achaemenes]] (690–328 trước [[Công nguyên]]) trị vì. Nhà Achaemenes thuộc sắc tộc Ba Tư của người [[Aryan]] xuất phát từ khu vực tỉnh Pars của Iran ngày nay. Trong nghiên cứu lịch sử Đế quốc Ba Tư cổ đại, người ta thường bị lệ thuộc nhiều vào các nhà [[sử học]] [[Hy Lạp cổ đại]], điển hình như các tác phẩm kinh điển của [[Herodotos]] và [[Xenophon]]. Số là người Ba Tư xưa chỉ thể hiện lòng sùng kính các vị vua của họ qua việc cúng tế tông miếu, chứ không viết sách vở gì cả. <ref>Josef Wiesehöfer, ''Ancient Persia'', trang 43</ref>
 
Tuy nhiên, một số người có tư tưởng “Đại dân tộc Iran”, liệt một số triều đại người ngoại quốc vào [[lịch sử Iran]]. Theo cách nhìn này đế quốc Ba Tư được khởi đầu với những người Media, sau khi họ cùng với [[người Babylonia]] tiêu diệt [[đế quốc Assyria]], và khởi lập [[đế quốc Media]]. [[Vua]] xứ Anshan là Cyrus II (khoảng năm 575 - 529 trước [[Công Nguyên]]), tức [[Cyrus Đại Đế]], lên nối ngôi vào năm 559 trước Công Nguyên) và đánh bại vua Media là [[Astyages]] tại [[Ecbatana]], thống nhất hai dân tộc Ba Tư và Media thành một [[Đế quốc Achaemenes]] vào năm 550 trước Công Nguyên.<ref>[[Kaveh Farrokh]], ''Shadows in the desert: ancient Persia at war'', trang 9</ref> Với chiến thắng hiển hách này, người Ba Tư trở thành bá chủ của châu Á, vì họ là nỗi sở hãi của các lân bang hùng mạnh. Dường như Cyrus Đại Đế đã chinh phạt một Vương quốc lân cận và giết cả vua nước ấy.<ref>Pierre Briant, ''From Cyrus to Alexander: A History of the Persian Empire'', trang 34</ref> Ông cũng thực hiện chiến thuật xuất sắc và dành chiến thắng vang dội, chinh phạt được [[Đế quốc Lydia]] vào nam 547 trước Công Nguyên.<ref name="Farokh4043">Kaveh Farrokh, ''Shadows in the desert: ancient Persia at war'', các trang 40-43.</ref> Sau đó, ông tiêu diệt được [[Đế quốc Tân Babylonia]], rôi đưa người [[Do Thái]] trở về [[Jerusalem]].<ref name="Farokh4043"/> Ông lập nên một Đế quốc Thế giới đầu tiên và để lại tiếng vang cho đến ngày nay.<ref name="Farrkoh4748"/> Đế quốc Ba Tư trở thành đế quốc huy hoàng nhất trong mọi quốc gia [[châu Á]] đương thời, do đó nhân dân tôn vinh Cyrus Đại Đế là vị "Quốc tổ" của họ. <ref>[[Josef Wiesehöfer]], ''Ancient Persia'', trang 44</ref>
 
Thời đó, còn rất nhiều vương quốc nhỏ, cương thổ gồm một hay vài thị trấn với chút ít đất chung quanh. Cyrus Đại đế chia đế quốc của ông thành 20 tỉnh (tiếng Ba Tư là ''xšaθra'' - Anh hóa là ''satrapy''), mỗi tỉnh gồm nhiều tiểu vương quốc. Quan Tổng đốc mỗi tỉnh gọi là ''xšaθrapāvā'' (''pāvā'' = người bảo vệ), phiên âm tiếng Anh là ''satrap'', phiên âm tiếng Pháp là ''satrape''. Do sự hiện hữu của nhiều tiểu vương đó, các vị Quốc vương Ba Tư cổ thường xưng hiệu là ''shahanshah'', tức là “Vua của các vua” (tiếng Ba Tư ''shah'' có nghĩa là vua). Tỷ như vua [[Darius Đại Đế]] nhà Achaemenes, ông xưng: ''"Trẫm là Darius, Đức Vua vĩ đại, Đức Vua của các vua, Đức Vua của Ba Tư, Đức Vua của các quốc gia/dân tộc..."''.<ref>Josef Wiesehöfer, ''Ancient Persia'', trang 29</ref> Danh hiệu này còn đuợc Quốc vương [[Muhammad Reza Pahlavi]] ([[1941]] - [[1979]]) sử dụng, vào [[thế kỷ 20]].
Dòng 48:
Trong suốt chiều dài của [[Lịch sử Iran]], thời gian hiện hữu của các [[triều đại]] thuộc đế chế Ba Tư cộng chung được khoảng 1500 năm.
 
Khác với các đế quốc [[Assyria]] và Babylonia khi xưa, đời Cyrus Đại Đế, Đế quốc Ba Tư tiến hành chính sách tự do, thừa nhận phong tục tập quán của các dân tộc bị đô hộ. Có người thậm chí còn coi ông là một trong những vị sáng tổ của [[nhân quyền]], do ông ban Thánh chỉ cho người [[Do Thái]] vốn bị người Babylon lưu đày được trở về quê hương sau khi ông tiêu diệt Babylonia vào năm 539 trước Công Nguyên. Ông thân chinh đem đại binh đi đánh [[Nữ hoàng]] [[Tomyris]] của [[người Massagetae]] vào năm 529 trước [[Công Nguyên]], nhưng ông [[tử trận]]. Điều này thể hiện khó khăn của người Ba Tư trong việc đặt ách bá quyền lên vùng [[Trung Á]].<ref>[[Pierre Briant]], ''From Cyrus to Alexander: A History of the Persian Empire'', các trang 47-49.</ref> Theo Herodotos, đây là cái kết của một nhà chinh phạt quá tham vọng, khát máu.<ref>Josef Wiesehöfer, ''Ancient Persia'', trang 48</ref> Nhưng vào năm 525 trước Công Nguyên, vua [[Cambyses II]]. chinh phạt [[Ai Cập]]. Người Ba Tư cướp phá tông miếu, gây cho giới tăng lữ Ai Cập căm phẫn.<ref>Josef Wiesehöfer, ''Ancient Persia'', trang 2</ref> Đời nhà Achaemenes, Ba Tư là nước lớn nhất [[thế giới]]. Diện tích của đế quốc này đạt đến cao điểm khoảng 7.500.000 &nbsp;km² dưới triều vua [[Darius Đại đế]] ([[522 TCN|522]] - [[485 TCN|485]] trước Công Nguyên). Ba Tư cũng là đế quốc đầu tiên trong lịch sử có lãnh thổ trải rộng trên ba châu Á, Âu, Phi. Là một vị vua hùng tài đại lược, Darius Đại Đế đập tan tác nhiều kẻ thù của Đế quốc Ba Tư. Ông quyết định kéo quân đi chinh phạt vùng đất này để đem lại vinh quang cho Đế quốc, củng cố nền thống trị của Ba Tư ở vùng Trung Á.<ref name="Farrkoh4748">Kaveh Farrokh, ''Shadows in the desert: ancient Persia at war'', các trang 47-48.</ref> Ông đã giành chiến thắng oanh liệt, bắt được cả vua của người [[Saka]] là [[Skunkha]] (519 TCN).<ref>Kaveh Farrokh, ''Shadows in the desert: ancient Persia at war'', trang 56</ref> Tại thời điểm ông qua đời, Đế quốc đã có biết bao dân tộc, tôn giáo. <ref> Josef Wiesehöfer, ''Ancient Persia'', trang 57</ref>
 
== Xem thêm ==
Dòng 61:
{{reflist}}
== Tài liệu tham khảo ==
* [[Kaveh Farrokh]], [http://books.google.com.vn/books?hl=en&id=p7kltwf9yrwC&dq=%22Farrokh%22&q=Cyrus#v=snippet&q=Cyrus&f=false ''Shadows in the desert: ancient Persia at war''], Osprey Publishing, 2007. ISBN 1846031087.
* Freeman-Greenville, G.S.P. Chronology of World History: A Calendar of Principal Events from 3000 B.C. to A.D. 1976. 2nd ed. London: Rex Collings, 1978.
* Grun, Bernard. The Timetables of History: A Horizontal Linkage of People and Events. 3rd rev. ed. New York: Simon and Schuster, 1991.
Dòng 68:
{{Sơ khai Afghanistan}}
{{Các chủ đề|Iran}}
 
{{Liên kết bài chất lượng tốt|no}}
{{Liên kết bài chất lượng tốt|zh-classical}}
 
[[Thể loại:Lịch sử Afghanistan]]
Hàng 74 ⟶ 77:
 
{{Link FA|it}}
{{Liên kết bài chất lượng tốt|no}}
{{Liên kết bài chất lượng tốt|zh-classical}}
 
[[af:Persiese Ryk]]
[[als:Persien]]