Khác biệt giữa bản sửa đổi của “HMS Queen Mary”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Thư mục: chú thích, replaced: {{Cite book → {{chú thích sách
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n Thay bản mẫu, replaced: |thumb| → |nhỏ| (4), |left| → |trái| (3), {{Main| → {{bài chính| (3) using AWB
Dòng 63:
== Thiết kế ==
=== Các đặc tính chung ===
[[Tập tin:Lion class battleship - Jane's Fighting Ships, 1919 - Project Gutenberg etext 24797.png|thumbnhỏ|lefttrái|Sơ đồ mạn trái và sàn tàu của [[Lion (lớp tàu chiến-tuần dương)|lớp tàu chiến-tuần dương ''Lion'']], có kiểu dáng bên ngoài tương tự với ''Queen Mary''|alt=Drawing of three-stacked battlecruiser]]
''Queen Mary'' to hơn đôi chút so với những chiếc thuộc [[Lion (lớp tàu chiến-tuần dương)|lớp tàu chiến-tuần dương ''Lion'']] dẫn trước. Nó có chiều dài chung {{convert|703|ft|6|in|m|0}}, kể cả [[ban công sau]], [[mạn thuyền]] rộng {{convert|80|ft|m}}, và độ sâu của [[mớn nước]] là {{convert|32|ft|4|in|m|2}} khi đầy tải nặng. Con tàu có trọng lượng choán nước là {{convert|26770|LT|t|0}}, và lên đến {{convert|31650|LT|t|0}} khi đầy tải nặng, hơn {{convert|1000|LT|t|0}} so với các con tàu trước đó. Nó có một [[chiều cao khuynh tâm]] {{convert|5,92|ft|1}} khi đầy tải nặng.<ref>{{Harvnb|Roberts|1997|p=43, 45}}</ref>
 
Dòng 94:
== Lịch sử hoạt động ==
=== Trước chiến tranh ===
[[Tập tin:HMS Queen Mary LOC 10459.jpg|thumbnhỏ|Lễ hạ thủy HMS ''Queen Mary'' tại xưởng tàu Palmers Shipbuilding]]
''Queen Mary'' được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng [[Palmers Shipbuilding and Iron Company]], [[Jarrow]], vào ngày [[6 tháng 8]] năm [[1911]]. Nó được hạ thủy vào ngày [[20 tháng 3]] năm [[1912]] và được hoàn tất vào [[tháng 8]] năm [[1913]]<ref>{{Harvnb|Roberts|1997|p=41, 123}}</ref> với tổng chi phí 2.078.491 [[Bảng Anh]] (bao gồm các khẩu pháo).<ref name=Parkes531>{{Harvnb|Parkes|1990|p=531}}</ref><ref>{{Harvnb|Burt|1986|p=167}}</ref> Được đặt dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, [[Đại tá Hải quân]] [[William Reginald Hall]], vốn được bổ nhiệm vào ngày [[1 tháng 7]], ''Queen Mary'' được phân về Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 dưới sự chỉ huy của [[Chuẩn Đô đốc]] [[David Beatty, Bá tước thứ nhất Beatty|David Beatty]] khi được đưa ra hoạt động vào ngày [[4 tháng 9]] năm [[1913]].<ref name=r23>{{Harvnb|Roberts|1997|p=123}}</ref> Cùng với phần còn lại của hải đội, nó thực hiện chuyến viếng thăm [[Brest, Pháp|Brest]], [[Pháo]] vào [[tháng 2]] năm [[1914]], và viếng thăm [[Nga]] trong [[tháng 6]].<ref>{{Harvnb|Burt|1986|p=161}}</ref>
 
=== Trận Heligoland Bight ===
{{Mainbài chính|Trận Heligoland (1914)}}
Hoạt động đầu tiên của ''Queen Mary'' trong [[Chiến tranh Thế giới thứ nhất]],trong thành phần lực lượng tàu chiến-tuần dương dưới quyền Đô đốc Beatty, là trong [[Trận Heligoland (1914)|Trận Heligoland Bight]] vào ngày [[28 tháng 8]] năm [[1914]]. Các con tàu của Beatty thoạt tiên được dự định sẽ hỗ trợ từ xa cho các tàu tuần dương và tàu khu trục Anh tiến gần hơn đến bờ biển Đức trong trường hợp các tàu chiến chủ lực của [[Hạm đội Biển khơi Đức]] xuất quân đáp trả các cuộc tấn công của Anh. Chúng quay mũi về phía Nam hết tốc độ lúc 11 giờ 35 phút<ref group="Ghi chú">Thời gian nêu trong bài này thuộc [[giờ GMT]], trễ hơn một giờ so với đa số các công trình nghiên cứu của Đức, vốn thuộc về múi [[giờ Trung Âu]], một giờ sớm hơn.</ref> khi lực lượng hạng nhẹ Anh không tách ra kịp thời theo kế hoạch, và triều cường đang dâng cao khiến các tàu chiến chủ lực Đức có thể vượt qua các bãi tại cửa sông [[Jade Estuary]]. Chiếc [[tàu tuần dương hạng nhẹ]] mới nguyên [[HMS Arethusa (1913)|''Arethusa'']] đã bị đánh hỏng trước đó trong trận chiến do hỏa lực từ các tàu tuần dương hạng nhẹ Đức [[SMS Strassburg|''Strassburg'']] và [[SMS Köln (1909)|''Köln'']], khi các tàu chiến-tuần dương của Beatty hiện ra từ làn sương mù lúc 12 giờ 37 phút. ''Strassburg'' lẫn vào trong làn sương mù và né tránh được hỏa lực pháo, nhưng ''Köln'' vẫn bị trông thấy và nhanh chóng bị đánh hỏng bởi đạn pháo của hải đội. Tuy nhiên, Beatty, bị thu hút khỏi việc kết liễu nó do sự xuất hiện bất ngờ của chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ cũ [[SMS Ariadne|''Ariadne'']] ngay trước mũi. Ông quay mũi đuổi theo, biến nó thành một xác tàu cháy bùng chỉ với ba loạt đạn pháo ở khoảng cách dưới {{convert|6000|yd|km|abbr=on}}. Đến 13 giờ 10 phút, Beatty quay mũi về phía Bắc và ra lệnh rút lui chung. Chủ lực của Beatty bắt gặp ''Köln'' đã bị đánh hỏng không lâu sau khi đổi hướng lên phía Bắc, và nó bị đánh chìm bởi hai loạt đạn pháo từ tàu chiến-tuần dương [[HMS Lion (1910)|''Lion'']].<ref>{{Harvnb|Massie|2004|p=109–113}}</ref> Sau đó, vào ngày [[13 tháng 10]], Đại tá C. I. Prowse nhận quyền chỉ huy con tàu.<ref name=r23/>
 
=== Cuộc bắn phá Scarborough ===
{{Mainbài chính|Bắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby}}
Hải quân Đức quyết định theo một chiến lược bắn phá các thị trấn Anh trên bờ biển Bắc Hải trong một nỗ lực lôi kéo và tiêu diệt từng phần Hải quân Hoàng gia. Trận [[bắn phá Yarmouth]] đầu tiên vào ngày [[3 tháng 11]] đã thành công một phần, nên một chiến dịch với quy mô lớn hơn được Đô đốc [[Franz von Hipper]] đặt ra sau đó. Các tàu chiến-tuần dương nhanh sẽ tiến hành bắn phá, trong khi toàn bộ Hạm đội Biển khơi sẽ chiếm lấy vị trí về phía Đông [[Dogger Bank]] sẵn sàng hỗ trợ cho lượt quay về đồng thời tiêu diệt mọi đơn vị Hải quân Anh phản ứng lại cuộc bắn phá. Cái mà người Đức không thể biết là phía Anh đã giải được mật mã hải quân của Đức và có kế hoạch đánh chặn lực lượng bắn phá trên đường quay trở về nhà; mặc dù họ không biết được sự có mặt ngoài biển của Hạm đội Biển khơi. Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 của Đô đốc Beatty, giờ đây giảm xuống còn bốn chiếc trong đó có ''Lion'', cùng với Hải đội Chiến trận 2 với sáu thiết giáp hạm dreadnought, được cho tách ra từ Hạm đội Grand trong một cố gắng đánh chặn lực lượng Đức gần [[Dogger Bank]].<ref>{{Harvnb|Massie|2004|p=333–334}}</ref>
 
Hipper khởi hành vào ngày [[15 tháng 12]] năm [[1914]] cho một đợt bắn phá khác và đã nả pháo thành công vào nhiều thị trấn Anh, nhưng các tàu khu trục Anh hộ tống cho Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 đã đụng độ với các tàu khu trục Đức hộ tống cho Hạm đội Biển khơi lúc 05 giờ 15 phút, trong một trận chiến bất phân thắng bại. [[Phó Đô đốc]] [[George Warrender, Tùy Nam tước thứ 7|Sir George Warrender]], Tư lệnh hải đội chiến trận 2, nhận được tín hiệu lúc 05 giờ 40 phút rằng tàu khu trục [[HMS Lynx (1913)|''Lynx'']] đã đối đầu với tàu khu trục đối phương, mặc dù Đô đốc Beaty đã không biết. Tàu khu trục [[HMS Shark (1912)|''Shark'']] đã nhìn thấy tàu tuần dương bọc thép Đức [[SMS Roon|''Roon'']] cùng các tàu hộ tống lúc khoảng 07 giờ 00, nhưng đã không thể truyền tín hiệu cho đến 07 giờ 25 phút. cùng với tàu chiến-tuần dương [[HMS New Zealand|''New Zealand'']], Warrender nhận được tin tức này, nhưng Beatty cũng không biết, mặc dù trong thực tế ''New Zealand'' được giao nhiệm vụ chuyển tiếp các thông điệp giữa các tàu khu trục và Beatty. Warrender tìm cách chuyển đi tin tức của ''Shark'' cho Beatty lúc 07 giờ 36 phút, nhưng đã không liên lạc được cho đến 07 giờ 55 phút. Beatty cho chuyển hướng ngay khi nhận được thông tin, và cho tách ''New Zealand'' ra để truy tìm ''Roon''. Nó bị ''New Zealand'' đuổi kịp đúng vào lúc Beatty nhận được tin tức [[Scarborough, North Yorkshire|Scarborough]] đang bị bắn phá lúc 09 giờ 00. Beatty ra lệnh cho ''New Zealand'' gia nhập trở lại hải đội và quay về phía Tây hướng đến Scarborough.<ref>{{Harvnb|Massie|2004|p=342–343}}</ref>
[[Tập tin:Scheer's illustration of I SG disposition 16 Dec. 1916 en.SVG|thumbnhỏ|lefttrái|Vị trí tương quan giữa các lực lượng Anh và Đức lúc khoảng 12 giờ 00]]
Lực lượng Anh được tách ra làm đôi để đi vòng qua khu vực nước nông Southwest Patch thuộc Dogger Bank; các con tàu của Beatty vòng lên phía Bắc, trong khi Warrender băng qua phía Nam khi chúng hướng về phía Tây ngăn chặn con đường chính ngang qua các bãi [[thủy lôi]] phòng thủ bờ biển Anh Quốc. Việc này đã để lại một khoảng trống {{convert|15|nmi|adj=on}} mà lực lượng hạng nhẹ Đức bắt đầu di chuyển. Đến 12 giờ 25 phút, các tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc Lực lượng Tuần tiễu 2 bắt đầu vượt qua lực lượng Anh để truy tìm Hipper. Tàu tuần dương hạng nhẹ [[HMS Southampton (1912)|''Southampton'']] trông thấy tàu tuần dương hạng nhẹ Đức [[SMS Stralsund|''Stralsund'']] và báo cáo lên Beatty. Đến 12 giờ 30 phút Beatty quay mũi các tàu chiến-tuần dương của mình hướng về các con tàu Đức. Ông đoán rằng các tàu tuần dương Đức là lực lượng đi tiên phong cho các con tàu của Hipper, tuy nhiên chúng đang tụt lại phía sau khoảng {{convert|31|nmi|km|abbr=on}}. Hải đội Tuần dương nhẹ 2, vốn là lực lượng hộ tống cho các con tàu của Beatty, được cho tách ra để săn đuổi các tàu tuần dương Đức, nhưng một tín hiệu bị hiểu sai được truyền đạt từ các tàu chiến-tuần dương Anh đã điều chúng quay trở lại vị trí hộ tống.<ref group="Ghi chú">Beatty dự định chỉ giữ lại hai tàu tuần dương hạng nhẹ sau cùng trong hải đội của [[William Goodenough|Goodenough]]; tuy nhiên, một tín hiệu viên trên [[HMS Nottingham (1913)|''Nottingham'']] đã đọc sai tín hiệu, nghĩ rằng mệnh lệnh này dành cho toàn thể hải đội, nên đã truyền đạt như thế đến cho Goodenough, vốn đã ra lệnh cho các tàu của mình quay trở lại vị trí hộ tống phía trước các tàu chiến-tuần dương của Beatty. Xem: Massie, trang 342–343</ref> Sự lẫn lộn này cho phép các tàu tuần dương hạng nhẹ Đức thoát được, và báo động cho Hipper vị trí của các tàu chiến-tuần dương Anh. Các tàu chiến-tuần dương Đức lượn về phía Đông Bắc lực lượng Anh và thoát đi an toàn.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1999|p=34}}</ref>
 
Dòng 112:
 
=== Trận Jutland ===
{{Mainbài chính|Trận Jutland}}
Ngày [[31 tháng 5]] năm [[1916]], ''Queen Mary'' ra khơi cùng với phần còn lại của Hải đội Tàu chiến-Tuần dương để đánh chặn một cuộc tiến quân của Hạm đội Biển khơi vào Bắc Hải. Người Anh đã có thể giải mã các thông điệp vô tuyến của Đức, và đã rời căn cứ trước khi Hạm đội Đức ra khơi. Các tàu chiến-tuần dương của Hipper đã nhìn thấy Hải đội Tàu chiến-Tuần dương Anh về phía Tây lúc 15 giờ 20 phút, nhưng các con tàu của Beaty đã không nhìn thấy đối thủ ở phía Đông cho đến 15 giờ 30 phút. Hai phút sau, Beaty ra lệnh đổi hướng về phía Đông Đông Nam chắn ngang đường rút lui của Hạm đội Đức và truyền lệnh sẵn sàng tác chiến. Hipper ra lệnh cho các con tàu dưới quyền bẻ lái sang mạn phải, tách xa lực lượng Anh, hầu như 180°, theo hướng Đông Nam, và giảm tốc độ xuống còn {{convert|18|kn}}, cho phép ba tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc Đội tuần tiễu 2 có thể bắt kịp. Với cú đổi hướng này, Hipper quay trở lại thành phần chủ lực của Hạm đội Biển khơi, lúc đó còn cách {{convert|60|mi}} về phía sau. Vào khoảng thời gian này, Beatty đổi hướng về phía Đông, vì rõ ràng là ông ở quá xa về phía Bắc để có thể cắt ngang hướng đi của Hipper.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1999|p=69, 71, 75}}</ref>
 
Đến đây bắt đầu một quá trình được đặt tên là đợt "Chạy về phía Nam" khi Beatty đổi hướng sang Đông Đông Nam lúc 15 giờ 45 phút, song song với hướng đi của Hipper, giờ đây ở khoảng cách dưới {{convert|18000|yd}}. Phía Đức khai hỏa trước tiên lúc 15 giờ 48 phút, và được phía Anh đáp trả. Các con tàu Anh vẫn đang còn trong quá trình đổi hướng, chỉ có hai chiếc dẫn đầu ''Lion'' và ''Princess Royal'' ổn định được hướng đi khi các tàu Đức nổ súng. Hỏa lực của phía Đức khá chính xác ngay từ đầu, nhưng phía Anh ước lượng quá xa khoảng cách, khi các con tàu Đức hòa lẫn vào làn sương mù. ''Queen Mary'' nổ súng lúc 15 giờ 50 phút nhắm vào [[SMS Seydlitz|''Seydlitz'']], chỉ sử dụng các khẩu pháo phía trước.<ref>{{Harvnb|Brooks|2005|p=237}}</ref> Đến 15 giờ 54 phút, khoảng cách giữa hai bên được rút ngắn xuống còn {{convert|12900|yd}}, và Beatty ra lệnh bẻ lái 2 point (22,5°) sang mạn phải để gia tăng khoảng cách giữa hai bên lúc 15 giờ 57 phút.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1999|p=83}}</ref> Vào lúc này ''Queen Mary'' đã bắn trúng ''Seydlitz'' hai phát lúc 15 giờ 55 và 15 giờ 57 phút, trong đó một phát đã gây một đám cháy thuốc phóng cordite lớn thổi tung tháp pháo bắn thượng tầng phía đuôi.<ref>{{Harvnb|Brooks|2005|p=241}}</ref>
[[Tập tin:Destruction of HMS Queen Mary.jpg|thumbnhỏ|lefttrái|''Queen Mary'' nổ tung trong trận Jutland]]
Khoảng cách trở nên quá xa để có thể bắn chính xác, nên Beatty đổi hướng 4 point (45°) sang mạn trái để rút ngắn khoảng cách từ 16 giờ 12 phút đến 16 giờ 15 phút. Sự cơ động này đã bộc lộ chiếc ''Lion'' ra trước hỏa lực của các tàu chiến-tuần dương Đức, và nó bị bắn trúng nhiều phát. Lửa và khói phát ra từ những phát trúng đích khiến [[SMS Derfflinger|''Derfflinger'']] mất dấu ''Princess Royal'', chuyển hỏa lực sang nhắm vào ''Queen Mary'' lúc 16 giờ 16 phút. ''Queen Mary'' bắn trúng ''Seydlitz'' một lần nữa lúc 16 giờ 17 phút, phá hủy một trong các khẩu pháo hạng hai.<ref>{{Harvnb|Tarrant|1999|p=89}}</ref> Đáp trả lại, ''Queen Mary'' bị ''Seydlitz'' bắn trúng hai lần trước 16 giờ 21 phút với hiệu quả không rõ, có thể đã bắn trúng mặt trước tháp pháo 'Q' vào lúc đó, đánh bật khẩu pháo bên phải. Đến 16 giờ 25 phút, khoảng cách giữa hai bên được rút ngắn xuống còn {{convert|14400|yd}}, và Beatty ra lệnh bẻ lái 2 point sang mạn phải để gia tăng khoảng cách một lần nữa. Tuy nhiên, sự cơ động này tỏ ra quá trễ đối với ''Queen Mary'', khi hỏa lực của ''Derfflinger'' bắt đầu có hiệu quả, bắn trúng nó hai lần trước 16 giờ 26 phút.<ref>{{Harvnb|Brooks|2005|p=246}}</ref> Một phát đạn pháo bắn trúng phía trước, và đã kích nổ một hoặc cả hai [[hầm đạn]] phía trước, khiến con tàu gảy làm đôi gần cột ăn-ten chính. Phát thứ hai có thể đã bắn trúng tháp pháo 'Q' gây ra một đám cháy tại phòng đạn pháo. Một vụ nổ khác, có thể do các đầu đạn pháo bị rơi ra, làm rung chuyển toàn bộ phần đuôi con tàu khi nó bắt đầu lật nghiêng và chìm.<ref name=b7>{{Harvnb|Brown|2003|p=167}}</ref> Chiếc tàu chiến-tuần dương ngay phía sau [[HMS Tiger (1913)|''Tiger'']] hứng chịu một cơn mưa mảnh đạn từ vụ nổ và bị buộc phải bẻ hết lái sang mạn trái để tránh va chạm.<ref>{{Harvnb|Brooks|2005|p=247}}</ref> 1.266 thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng theo con tàu; 18 người sống sót được các tàu khu trục [[HMS Laurel (1913)|''Laurel'']] và [[HMS Petard (1916)|''Petard'']] cứu vớt, hai người được phía Đức vớt lên,<ref>{{Harvnb|Williams|1996|p=132}}</ref> và một người bởi chiếc tàu khu trục [[HMS Tipperary (1915)|''Tipperary'']].<ref>{{chú thích báo | title= Twice Rescued from the Sea | newspaper= [[The Times]] | page=10 | date=6 June 1916 | accessdate=5 October 2011}}</ref><ref group="Ghi chú">Theo Corbett, trang 438, và ''Narrative of the Battle of Jutland'', trang 95, tổn thất nhân mạng bao gồm: 57 sĩ quan và 1.209 thủy thủ thiệt mạng (tổng cộng 1.266 người); 2 sĩ quan và 5 thủy thủ bị thương (tổng cộng 7); một sĩ quan và một thủy thủ bị bắt làm [[tù binh chiến tranh]] (tổng cộng 2). Theo Parkes, trang 536, có một điểm khác biệt khi đưa ra con số sĩ quan tử trận là 67 thay vì 57, có thể do lỗi xếp chữ in ấn. Tác giả Campbell (1986), trang 338, đưa ra con số thương vong 1266 người tử trận, 6 bị thương và 2 bị bắt làm tù binh.</ref>